Trần Bình Trọng
Bách khoa toàn thư mở WikipediaTrần Bình Trọng (1259[1] - 1285) là danh tướng thời Trần, có công lớn hộ giá bảo vệ cho hai vua Trần (Trần Thánh Tông và Trần Nhân Tông) trong cuộc kháng chiến chống quân Nguyên-Mông lần thứ hai. Ông hy sinh khi chặn quân Nguyên ở bãi Thiên Mạc[2][3], được truy phong làm Bảo Nghĩa Vương. Xuất thân
Trần Bình Trọng thuộc dòng dõi Đại Hành Hoàng Đế Lê Hoàn quê gốc ở vùng nay là huyện Thọ Xuân, tỉnh Thanh Hóa[1], sinh ở xã Bảo Thái, nay thuộc huyện Thanh Liêm, tỉnh Hà Nam[cần dẫn nguồn]. Vợ Trần Bình Trọng là công chúa Thụy Bảo (Thụy Bảo đã có một đời chồng trước là Uy Văn Vương Toại). Sau này, con gái của Trần Bình Trọng, Chiêu Hiến Hoàng thái hậu, là mẹ của Trần Minh Tông, vua thứ năm triều Trần. Cha, mẹSử sách không ghi chép cha mẹ ông là ai. Tuy nhiên, có ý kiến cho rằng phụ thân ông là danh tướng thời Trần Thái Tông là Lê Phụ Trần. Lê Phụ Trần lập công lớn trong Kháng chiến chống Nguyên Mông lần thứ nhất, nên được vua gả Lý Chiêu Thánh cho. Trần Bình Trọng có thể là con của Lê Phụ Trần với Lý Chiêu Hoàng[4]. Trận đánh chiến lượcTháng 1 năm 1285, 50 vạn quân Nguyên-Mông do Trấn Nam Vương Thoát Hoan, con trai của Hoàng đế nhà Nguyên Hốt Tất Liệt, cầm đầu chia quân làm hai cánh tấn công xâm lược Đại Việt. Quân Nguyên Mông là đạo quân cực kỳ thiện chiến, nhanh chóng chiếm ưu thế tuyệt đối trước quân Đại Việt, ít hơn và không quen chiến trận. Sau thất bại trong vài trận đánh mở màn, tổng tư lệnh quân Đại Việt, Quốc công tiết chế Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn quyết định lui quân về giữ Vạn Kiếp (nay thuộc vùng Vạn Yên, Chí Linh, Hải Dương). Sau đó, quân Đại Việt lui về Thăng Long, nhưng cũng không giữ được trước sức tấn công ồ ạt của quân Nguyên. Hưng Đạo Vương quyết định rút khỏi Thăng Long, lui về Thiên Trường (nay là tỉnh Nam Định). Trần Bình Trọng được Hưng Đạo Vương và hai vua Trần giao cho một nhiệm vụ nặng nề: giữ vùng Đà Mạc - Thiên Mạc, ngăn chặn và cầm chân quân Nguyên, đảm bảo cho bộ chỉ huy quân kháng chiến rút lui an toàn và bí mật, không để lại dấu vết. Tư lệnh quân Nguyên là Thoát Hoan đặc biệt ưu tiên cho cánh quân truy đuổi này với hai đạo cả thủy lẫn bộ đều do những tướng giỏi, hữu thừa Khoan Triệt và tả thừa Lý Hằng cùng Ô Mã Nhi, chỉ huy, đều dùng quân khinh kỵ và thuyền nhẹ để truy đuổi bằng được hai vua Trần. Trần Bình Trọng đã tổ chức cuộc đánh chặn ngay tại bãi Thiên Mạc. Do sự chênh lệch quá lớn về quân số, Trần Bình Trọng bị bắt, nhưng trận đánh là một thắng lợi cực kỳ quan trọng về mặt chiến lược với cuộc kháng chiến khi kể từ đó, quân Nguyên hoàn toàn mất dấu bộ chỉ huy kháng chiến. Anh dũng hy sinhSau khi bắt được Trần Bình Trọng, tướng Nguyên tìm mọi cách để khai thác thông tin, dọa nạt, dụ dỗ ông. Tuy nhiên, Trần Bình Trọng kiên quyết không khuất phục. Khi được hỏi có muốn làm vương đất bắc không, Trần Bình Trọng khẳng khái trả lời:
Đó là một trong những câu nói nổi tiếng nhất trong lịch sử chống ngoại xâm cũng như lịch sử Việt Nam nói chung, trở thành một trong những biểu tượng của tinh thần yêu nước chống ngoại xâm của dân tộc Việt. Không thể khuất phục được Trần Bình Trọng, quân Nguyên buộc phải giết ông vào ngày 21 tháng Giêng[7] năm Ất Dậu (26-2-1285)?[8][9], còn Đại Việt Sử ký Toàn thư (Bản kỷ quyển 5) và Khâm định Việt sử thông giám Cương mục (Chính biên quyển thứ 7) đều chép là tháng 2 (âm lịch) năm 1285. Năm đó, Trần Bình Trọng 26 tuổi. ___________________________________________________________________________________________________________________
Bảo Nghĩa Vương Trần Bình Trọng
Tháng 1-1285, 50 vạn quân Nguyên Mông do Trấn Nam Vương Thoát Hoan - con trai của Hoàng đế Nguyên Mông Hốt Tất Liệt, cầm đầu chia quân làm hai cánh ào ạt tấn công xâm lược Đại Việt.
Trước thế giặc tấn công dữ dội từ nhiều phía, quân ta rơi vào thế bất lợi, Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn bèn quyết định lui quân về giữ Vạn Kiếp (nay thuộc vùng Vạn Yên, Chí Linh). Một cuộc chiến hết sức ác liệt đã diễn ra giữa quân ta và quân giặc ở Vạn Kiếp. Quân ta buộc phải lui về giữ Thăng Long. Quân giặc nhân đà này, hối hả đưa quân đánh Thăng Long. Hưng Đạo Vương cùng Trần Thánh Tông, Trần Nhân Tông trực tiếp trấn giữ Thăng Long, nhưng thế giặc rất mạnh, quân ta lại buộc rút khỏi Thăng Long, lui về Thiên Trường (Nam Định) để bảo toàn lực lượng.
Bảo Nghĩa Vương Trần Bình Trọng được Hưng Đạo Vương và hai vua Trần giao cho giữ vùng Đà Mạc - Thiên Mạc (nay thuộc Khoái Châu, Hưng Yên). Trước đường tiến quân truy đuổi hết sức dữ dội của hai cánh quân giặc cả bộ lẫn thủy do Hữu thừa Khoan Triệt và Tả thừa Lý Hằng cùng tướng Ô Mã Nhi cầm đầu, cuộc chiến chặn giặc đầu tiên đã diễn ra ở Đà Mạc. Trần Bình Trọng và quân sĩ án ngữ ở đây đã chiến đấu rất dũng cảm để bảo vệ đường rút lui của nhà vua và chủ tướng. Quân ta ít, quân địch quá đông, cuối cùng, ông bị sa vào tay giặc. Tướng giặc tìm mọi cách dọa nạt, dụ dỗ buộc ông hàng phục. Ông kiên quyết không chịu khuất phục. Ông đã tuyệt thực, nêu cao khí tiết trung dũng của người tướng anh hùng. Dọa nạt, khảo tra không được, chúng giở trò mua chuộc, hỏi ông có muốn làm vương đất Bắc không (...) ông đã thét to: “Ta thà làm ma nước Nam chứ không thèm làm vương đất Bắc”. Không dụ dỗ mua chuộc được ông, bọn giặc đã giết ông, ngày 21 tháng giêng năm Ất Dậu (26-2-1285) lúc ông vừa 26 tuổi...
Trần Bình Trọng sinh năm 1259, quê xã Bảo Thái (nay thuộc huyện Thanh Liêm, Hà Nam), vốn dòng dõi Đại Hành Hoàng đế Lê Hoàn. Do ông nội lập được công lớn vào thời Trần Thái Tông, nên được vua đổi thành họ Trần.
Khí tiết và cái chết oanh liệt của Trần Bình Trọng đã thổi thêm ngọn lửa căm thù giặc vào toàn thể quân dân Đại Việt thời Trần, góp phần làm nên đại thắng quân Nguyên Mông. Ông mãi mãi là tấm gương sáng chói về tinh thần bất khuất trước uy lực, không bị mua chuộc bởi vinh hoa phú quý, sẵn sàng hy sinh tính mạng vì Tổ quốc. Cụ Phan Kế Bính viết thơ cảm vịnh ông: “Giỏi thay! Trần Bình trọng/ Dòng dõi Lê Đại Hành/ Đánh giặc dư tài mạnh/ Thờ vua một tiết trinh/ Bắc vương sống mà nhục/ Nam quỷ thác cũng vinh/ Cứng cỏi lời trung liệt/ Ngàn thu tỏ đại danh”.
NHL |