MỤC LỤC
Câu 50 : Người chết sau 49 ngày tiếp tục cầu siêu được
không?
Câu 52 : Khi chấp tác nhổ cỏ làm chết những con vật nhỏ có tội
không?
GIẢI ĐÁP
:
Hỏi: Nghi thức thọ
trai quá đường, khi tụng bài cúng dường, tại sao bàn tay trái phải co 2 ngón lại
và dựng đứng 3 ngón lên, rồi để chén cơm lên trên đó? Còn bàn tay mặt thì bắt
ấn, rồi đưa lên ngang trán. Xin hỏi: Điều này có ý nghĩa gì?
Đáp: Nghi thức thọ trai quá đường là một trong nhiều nghi
thức của Phật giáo. Mỗi tôn giáo đều có những lễ nghi hành trì đặc biệt của tôn
giáo đó. Phật giáo cũng thế. Đây là nghi thức mà chỉ có trong các chùa thuộc hệ
phái Bắc Tông (Đại Thừa); còn Phật giáo Nam Tông (Tiểu Thừa) thì không có thực
hành nghi thức giống như thế nầy. Vì lẽ, Phật giáo Bắc Tông chịu ảnh hưởng sâu
đậm Phật giáo Trung Hoa. Mà Phật giáo Trung Hoa rất chú trọng đến phần lễ nghi
hình thức. Đây cũng là một sắc thái văn hóa đặc thù của họ. Tuy nhiên, hình thức
lễ nghi, theo Phật giáo, chúng chỉ có tác dụng là phương tiện chớ không phải cứu
cánh. Phật giáo chủ trương: “Sự, Lý phải viên dung”. Nương sự để hiển lý hay tức
lý để hiển sự. Vì vậy, mọi nghi thức trong thiền môn, đều có một ý nghĩa tiêu
biểu đặc thù của nó.
Hình ảnh ba ngón tay (ngón cái, trỏ và út) dựng đứng
lên giữ một tư thế rất vững vàng, giống như hình ba trái núi đứng sừng sững, đó
là biểu trưng cho Tam vô lậu học. Tam vô lậu học là ba môn học rất quan trọng
trong Phật giáo. Ba môn học đó là gì? Tức là Giới học, Định học và Huệ học. Có
thể nói, toàn bộ hệ thống giáo điển của Phật giáo đều xây dựng trên ba môn học
nầy. Chúng tóm thâu tất cả và hỗ tương với nhau rất là chặt chẽ. Nếu thiếu một
trong ba, thì giáo lý Phật giáo sẽ sụp đổ ngay. Giống như ba ngón tay đưa lên,
nếu thiếu một ngón, thì ta không thể nào giữ vững chén cơm được. Vì thế nên kinh
nói: "Nhơn Giới sanh Định và nhơn Định mới phát Huệ." Người tu hành muốn chóng
thành quả vị Phật, thì không thể nào xao lãng ba môn học nầy. Tuy nhiên, trong
ba môn học nầy, thì Huệ học đóng vai trò quan trọng hơn. Dù hành giả tu môn nào,
nếu thiếu trí huệ thẩm sát chỉ đạo thì không thể nào thành tựu kết quả tốt đẹp
được.
Còn tay mặt bắt ấn, đó là ấn Cam lồ. Cam là ngọt. Lồ là sương mốc.
Cam lồ là những hạt sương ngọt dịu tươi mát. Cam lồ là tượng trưng cho từ bi.
Trong đạo Phật trí huệ và từ bi luôn luôn đi đôi với nhau. Chúng hỗ tương nhau
không thể tách rời ra được. Nếu chỉ có trí huệ mà không có từ bi, thì đó là loại
trí huệ khô, không làm lợi ích cho chúng sanh. Ngược lại, chỉ có từ bi mà thiếu
trí huệ kèm theo, thì đó là thứ từ bi mù quáng.
Thí dụ một người đam mê
cờ bạc thua hết tiền, đến xin tiền bạn để họ tiếp tục chơi nữa. Khi đó, nếu bạn
vì thương mà cho tiền họ, thì chẳng khác nào bạn tiếp tay cho họ lún sâu vào con
đường nghiện ngập tội lỗi. Như thế, thì bạn có từ bi mà thiếu trí huệ quan sát
tường tận, nhà Phật gọi đó là thứ từ bi mù quáng. Thế nên, Phật dạy người Phật
tử luôn luôn trang bị cho mình đầy đủ cả Bi lẫn Trí. Mà trí huệ là cái dẫn đầu
để hướng dẫn lòng từ bi của chúng ta đặt đúng nơi đúng chỗ. Như thế, mới ích lợi
cho mình và cho tất cả chúng sanh. Do đó, mà hai tay bắt ấn phải để ngang nhau
không cao không thấp, đó là tiêu biểu cho Bi và Trí phải luôn song hành đi đôi
với nhau vậy.
Tại sao phải đưa lên ngang trán? Thật ra là đưa lên ngang
chân mày, gọi là “cử án tề mi”. Đưa lên ngang chân mày là tiêu biểu cho lòng tôn
kính. Bởi vì ngày xưa, theo tập tục của người Trung Hoa, mỗi khi người dưới dâng
thực phẩm hay đồ vật cho người trên, thì phải đưa lên ngang chân mày, để biểu lộ
lòng kính trọng rất mực. Trong Kiều có câu:
Hiên sau treo sẵn cầm
trăng
Vội vàng Sinh đã tay nâng ngang mày.
Hai câu này diễn tả lúc
Kiều sang nhà trọ của Kim Trọng và được Kim Trọng ra phía sau hiên lấy cây đờn
nguyệt cầm rồi hai tay trân trọng đưa lên ngang mày để dâng cây đờn cho Kiều. Đó
là tỏ ý kính trọng Kiều vậy. Sỡ dĩ như thế, là vì Kim Trọng muốn noi theo tích
xưa: Nàng Mạnh Quang là người vợ hiền, mỗi khi dâng cơm lên cho chồng là Lương
Hồng ăn, nàng thường nâng mâm cơm cao ngang lông mày. Trong truyện Quan Âm Thị
Kính cũng có câu:
Án kia nâng ở ngang mày,
Sạch trong một tiết, thảo
ngay một bề.
Như vậy, đưa lên ngang mày là để tỏ lòng kính trọng dâng cơm
lên cúng dường Tam Bảo vậy.
Hỏi: Theo thiền sử,
thì Tổ Tỳ Ni Đa lưu Chi là vị Tổ đầu tiên từ Trung Hoa mang Thiền tông đến Việt
Nam. Như vậy, lẽ ra chúng ta phải thờ Ngài là vị sơ Tổ Thiền tông Việt Nam mới
đúng. Tại sao lại phải thờ Tổ Bồ đề Đạt Ma?
Đáp: Thiền có
nhiều phái. Đại loại có năm hệ phái chính sau đây:
1. Tỳ Ni Đa Lưu Chi 2.Vô
Ngôn Thông 3. Thảo Đường 4. Tào Động 5. Lâm Tế. Tất cả năm hệ phái nầy, đều bắt
nguồn từ Tổ Bồ Đề Đạt Ma. Vì Tổ Bồ Đề Đạt Ma là sơ Tổ Trung Hoa. Sau đó, truyền
cho Tổ Huệ Khả, rồi đến Tổ Tăng Xán, Đạo Tín, Hoằng Nhẫn và sau cùng là Tổ Huệ
Năng.
Từ Tổ Huệ Năng truyền xuống cho các đệ tử. Từ đó về sau mới có
chia các tông phái thiền. Như vậy, chỉ thờ sơ Tổ Bồ Đề Đạt Ma là đã trùm khắp
hết các thiền phái khác. Còn nếu chúng ta chỉ thờ Tổ Tỳ ni đa lưu chi không
thôi, thì làm sao trùm hết các thiền phái khác được. Vì Tổ Tỳ ni đa lưu chi cũng
chỉ là một thiền phái như các thiền phái kia. Nếu thờ như thế, thì có tánh cách
thiên lệch và không thể đại diện cho các thiền phái hết được. Do đó, mà người ta
chỉ thờ Tổ Bồ Đề Đạt Ma là bao trùm khắp cả. Và như thế, thì không ai có thể
chống đối được.
Hỏi: Tôi là người
mới bước chân vào đạo, muốn tìm hiểu học hỏi Phật Pháp. Nhưng không biết phải
học hỏi kinh sách nào trước, cho nó có thứ lớp dễ hiểu hợp với trình độ sơ cơ
của tôi?
Đáp: Thưa bạn, qua câu hỏi của bạn, chúng tôi biết bạn là
người đang có nhiệt tâm muốn tha thiết nghiên tầm giáo điển của Phật giáo. Đây
là điều thật đáng kính và đáng khích lệ.
Về kinh sách của Phật giáo thì
có rất nhiều loại. Vì Phật giáo có cả một Đại tạng kinh bằng chữ Hán. Hiện nay
(2007) điều rất hãnh diện cho người Phật tử Việt Nam chúng ta, theo chỗ chúng
tôi được biết là, chư Tôn thiền đức đã dịch xong bộ Đại tạng kinh từ chữ Hán
sang chữ Việt. Đây là điều thật đáng vui mừng cho Phật Giáo Việt Nam, nay đã có
một Đại tạng kinh bằng chữ Việt. Tuy đã phiên dịch xong, nhưng còn phải chờ đợi
sự in ấn, ít nhứt cũng phải trải qua một thời gian vài năm mới hoàn thành. Tất
cả, lâu hay mau hoàn toàn đều tùy thuộc vào phần tài chánh. Phần tài chánh nầy
là do sự đóng góp của toàn thể Phật tử. Theo Hội Đồng Phiên Dịch trong nước cho
biết, công trình in ấn nhanh hay chậm đều do sự đóng góp tài chánh của Phật tử
khắp nơi. Nếu Phật tử tích cực đóng góp, thì công trình thực hiện in ấn, chắc
chắn là sẽ hoàn thành sớm hơn.
Tuy nhiên, Đại tạng kinh Phật giáo dù đã
được hình thành bằng Việt ngữ, nhưng đối với người mới sơ cơ học Phật cũng không
phải dễ dàng nghiên cứu học hỏi. Bởi có rất nhiều Kinh, Luật, Luận khác nào như
một khu rừng rậm, mà người đi vào quờ quạng mò mẫm, rối rắm không biết lối ra.
Nghĩa là, không biết nên học cái nào trước cái nào sau. Đó cũng là điều rất khó
cho người sơ cơ học Phật.
Thế nên, theo tôi, nếu bạn muốn nghiên cứu học
hỏi cho có hệ thống từ thấp lên cao, thì từ trước tới nay, theo chỗ chúng tôi
được biết, thì chưa có bộ sách nào biên soạn hay hơn bộ Phật Học Phổ Thông. Bộ
sách nầy do Cố Hòa Thượng Thiện Hoa biên soạn. Toàn sách gồm có 12 quyển, gọi là
12 nấc thang giáo lý.
Sách được trình bày qua Ngũ Thừa Phật Giáo. Mỗi
Thừa đã được soạn giả trình bày qua từng bài học, biên soạn rất công phu, trình
bày rất sáng sủa, có thể nói, đây là một loại sách giáo khoa, dễ học, dễ hiểu,
giúp cho người học đở tốn thời gian phải tìm tòi lục lọi các kinh điển khác.
Thiết nghĩ, mỗi Phật tử chúng ta, nên có bộ sách nầy được xem như là sách gối
đầu giường.
Tuy sách để là Phật Học Phổ Thông, nhưng cũng không kém
phần quan trọng. Về Nhơn Thừa và Thiên Thừa, bạn có thể đọc dễ hiểu. Nhưng từ
Thanh Văn Thừa trở đi đến Bồ Tát Thừa, gồm có các bộ kinh luận cũng không phải
là dễ nhận dễ hiểu, nếu không có thầy trực tiếp giảng dạy. Do đó, tôi thành thật
khuyên bạn, tốt hơn hết là bạn nên đến chùa học hỏi với quý thầy, những vị đã có
trình độ Phật học căn bản vững chắc. Hoặc giả bạn có thể trực tiếp ghi danh tham
dự những khóa học giáo lý do các chùa khai giảng, để từ đó bạn có một số vốn
liếng căn bản Phật học, rồi tìm đọc các bộ kinh luận khác, thì sẽ dễ tiến hơn.
Đó là lời khuyên thành thật của chúng tôi. Mong bạn hoan hỉ. Kính chúc bạn vững
tiến trên con đường tu học Phật Pháp.
Hỏi: Trong khi trao
đổi với một người bạn về giới thứ nhất không sát sanh. Tôi cho rằng mạng sống
giữa con người và con vật dù nhỏ nhít như con trùng hay con châu chấu, cũng đều
có mạng sống như nhau, cần phải được bảo vệ và tôn trọng. Nếu giết hại chúng thì
cũng phạm tội sát sanh như giết con người. Hay ngược lại, nếu cứu mạng sống
chúng thì cũng như cứu mạng sống con người, bởi vì mỗi loài đều có tánh giác
bình đẳng như nhau. Bạn tôi không đồng ý và cho rằng mạng sống con người quan
trọng hơn, nên cần phải được tôn trọng và bảo vệ hơn loài vật. Như thế, thì xin
hỏi: lý lẽ giữa tôi và bạn tôi ai đúng ai sai?
Đáp: Nếu bảo xác
quyết đúng hay sai, thì theo tôi, cả hai đều đúng, nhưng đúng chỉ ở một phương
diện mà thôi. Lý do tại sao? Bởi vì theo bạn, thì bạn đứng trên lập trường từ bi
và lý tánh để quyết định. Ngược lại, ông bạn của bạn thì đứng trên lập trường
giá trị của mạng sống mà so sánh quyết định. Vấn đề nầy, chúng tôi xin được góp
ý như sau:
Về phương diện từ bi, thì điều bạn nêu ra rất là hữu lý. Bởi
Phật dạy, người Phật tử phải luôn luôn nuôi dưỡng lòng từ bi với muôn loài. Vì
mọi sinh vật đều có mạng sống và chúng muốn được tự do sinh tồn. Theo lẽ công
bằng, hễ mình biết quý trọng thân mạng mình, thì kẻ khác hay loài khác cũng đều
biết quý trọng thân mạng
của chúng. Do đó, người có lòng thương, thì không nở
ra tay sát hại từ loài người cho đến loài vật.
Tiến thêm một bước nữa,
Phật dạy tất cả chúng sanh đều có Phật tánh. (Nhứt thiết chúng sanh giai hữu
Phật tánh, Kinh Niết Bàn). Trên thân tướng của mỗi loài, tuy hình hài có khác
nhau, mà tánh giác nào có khác nhau. Thế là, vì tôn trọng tánh giác bình đẳng,
mà không nên tàn sát sanh mạng, dù sanh mạng đó nhỏ nhít như con trùng hay con
châu chấu mà bạn đã nêu ra.
Như vậy, điều mà bạn nêu ra, rất phù hợp với
lời Phật dạy và cũng rất phù hợp với lòng nhân của con người. Tôi dám quả quyết
là bạn đúng. Tuy nhiên, nếu đứng về phương diện giá trị mạng sống, cân phân nặng
nhẹ, giữa mạng sống con người và mạng sống con vật, thì sự quả quyết của người
bạn của bạn là đúng.
Bởi lẽ, chúng ta cần phải minh định rõ ràng về phạm
vi của giới bất sát sanh nầy. Trên nguyên tắc chủ yếu chính là Phật cấm người
Phật tử không được sát nhơn. Bởi giá trị mạng sống của con người, xét về hai
mặt: sinh lý và tâm lý có nhiều yếu tố thù thắng mà các loài động vật khác không
thể sánh kịp. Do đó, mà người ta gọi loài người là thượng đẳng, còn loài vật là
hạ đẳng. Thử chúng ta xét qua vài đức tánh căn bản:
- Về trí năng, con
người có một trí năng rất tinh khôn và khả năng phát minh sáng tạo những kỹ
thuật, những vật dụng máy móc tinh xảo, bằng chứng như các nhà khoa học, bác học
hiện tại. Đồng thời, con người có khả năng biện biệt phải trái, thiện ác và biết
tu tạo phước đức, làm sai trái, biết phục thiện, cải hối và có tâm hướng thượng
thăng tiến đến quả vị cao tột giải thoát, như chư Phật, chư Bồ Tát chẳng hạn.
Ngoài ra, con người còn có khả năng tư duy và một trí nhớ rất siêu đẳng. Tóm
lại, những yếu tố khả năng trí thức nầy, các loài động vật khác làm gì có
được.
- Về phước báo, loài người có thân tướng thắng diệu, đẹp đẽ hơn
loài vật nhiều. Về cách sống loài người có văn minh, văn hóa cao hơn loài vật.
Về thọ dụng thụ hưởng, loài người thọ dụng thụ hưởng những thứ thực phẩm sang
trọng như cao lương mỹ vị v.v...
- Về giá trị mạng sống, không cần phải
biện minh dài dòng, ai cũng biết giá trị mạng sống con người cao gấp trăm ngàn
lần các loài động vật khác. Điều nầy chúng ta thử xét nghiệm vào đời sống thực
tế qua một vài trường hợp thí dụ điển hình, chúng ta sẽ thấy rõ.
Thí dụ
trong nhà bạn, một hôm, con của bạn bị đau sắp chết, có thầy thuốc nói bệnh nầy
muốn trị hết, cần phải có một loại thuốc quý trị giá khoảng 20 ngàn Úc kim, mới
có thể trị được. Nghe thế, vì muốn cứu sống sanh mạng con bạn, chắc hẳn là bạn
sẽ sẵn sàng, dù phải vay nợ để có được số tiền đó trị liệu, miễn sao con bạn
lành mạnh, thì bất cứ giá nào bạn cũng không từ nan. Đồng thời, trong khi đó nhà
bạn cũng có con chó bệnh sắp chết và thầy thuốc cũng nói y như vậy, thử hỏi bạn
có chạy kiếm đủ số tiền đó để chữa trị cho con chó hay không? Hay là bạn chỉ cho
uống thuốc qua loa rồi cũng tùy theo nghiệp của nó mà phải chịu. Như vậy, so hai
sanh mạng, dĩ nhiên, sanh mạng con người được quý trọng gấp trăm ngàn lần con
vật.
Một thí dụ khác, như có một bọn khủng bố xâm nhập vào nước Úc, chúng
lùng bắt hết những con ruồi, muỗi rồi đem giết sạch hết. Thử hỏi Chánh phủ Úc và
nhơn dân Úc sẽ đối xử với bọn khủng bố đó như thế nào? Họ cám ơn hay dốc hết
toàn lực binh hùng tướng mạnh đem quân đi đánh trả thù bọn khủng bố như người Mỹ
đã làm. Sở dĩ Mỹ trả thù, vì bọn khủng bố giết nhiều sanh mạng người. Chớ nếu
như bọn chúng giết hằng vạn hằng triệu con ruồi, con muỗi, thì chẳng những người
Mỹ không tỏ ra chút hờn giận mà còn cám ơn họ rối rít nữa. Bạn thấy sao? Mạng
sống nào quý hơn?
Nếu như bạn cho rằng giết một con châu chấu, thì cũng
phạm tội nặng như giết một con người. Điều nầy e không đúng. Bởi vì, như trên đã
nói, mạng sống con người có giá trị lớn hơn muôn lần con vật, vậy thì không thể
cho rằng phạm trọng tội như nhau. Theo tôi, thì giết người là trọng tội, giết
vật là tội nhẹ. Đối với luật pháp thế gian cũng thế. Luật pháp chú trọng đến sự
bảo vệ con người hơn là con vật. Dù rằng con vật cũng được bảo vệ, nhưng không
bằng con người.
Tóm lại, qua những ý kiến lập luận của hai người thì,
theo tôi, mỗi người đều đúng ở một phương diện, như trên đã trình bày. Tuy
nhiên, nếu kết hợp bổ sung hai ý kiến trên lại, thì thiết nghĩ mới đầy đủ ý
nghĩa của giới bất sát sanh nầy.
Hỏi: Tôi thường thấy
lúc cúng vong, có ba chén cơm để ngang nhau. Chén cơm chính giữa thì để một đôi
đủa, còn 2 chén cơm 2 bên, thì chỉ để có 2 chiếc đủa. Xin hỏi, điều nầy có ý
nghĩa gì ?
Đáp: Nghi cúng
cơm nầy là do tổ tiên ta bày ra. Đây là một tập tục có từ ngàn xưa. Khi cúng để
3 chén cơm, một chén chính giữa phải đầy cơm và 2 chén 2 bên thì lưng. Chén cơm
và đôi đủa ở giữa là để cúng cho hương linh mới chết, còn 2 chén và 2 chiếc đủa
2 bên là để cúng cho 2 bên vai giác, tức là tả mạng thần quang và hữu mạng thần
quang. Thường là để cúng 3 chén, 6 chén hoặc 9 chén, chớ để 5 chén là sai. Lý do
để 2 chiếc đủa 2 bên, ý nói rằng, ma cũ thường ăn hiếp ma mới, nên chỉ để một
chiếc mà không để nguyên đôi. Nếu để nguyên đôi, thì hương linh mới chết đó khó
có thể ăn được trọn vẹn, mà bị các cô hồn giành giựt ăn hết vậy. Cần nói rõ,
cách thức cúng cơm nầy không phải là nghi thức của Phật giáo, mà là theo tục lệ
tín ngưỡng nhân gian xưa bày nay làm mà thôi.
Hỏi: Phật có 3 thân:
Pháp thân, Ứng thân, Báo thân. Kinh Địa Tạng nói: Phật lên cung trời Đao Lợi
thuyết pháp cho Thánh Mẫu nghe. Vậy xin hỏi, khi lên cung trời thuyết pháp, Phật
đi bằng thân nào?
Đáp: Xin thưa
ngay là Phật đi bằng Ứng thân. Lý do tại sao? Bởi vì, đức Phật có lục thông.
Trong lục thông, có một thông gọi là Thần túc thông. Thông nầy có năng lực hiện
thân tùy ý muốn tự do vô ngại. Điều nầy, chúng ta cũng không lạ gì, khi đọc các
sách truyện xưa, nhứt là truyện Tàu. Như truyện Phong Thần chẳng hạn. Trong đó,
diễn tả các vị có phép lạ đằng vân giá võ hay độn thổ tàng hình v.v... Hoặc như
các vị thiên tiên bay qua lại tự do. Đó là những người chưa tu hành đắc đạo mà
còn biến hóa như thế. Ngược lại, đức Phật là một bậc Đại Giác Ngộ. Ngài có đủ
thần thông lực dụng biến hóa không lường mà có lẽ nào lại không bằng các vị tiên
đó hay sao? Do đó, Phật hiện thân ở các cõi, các nơi đều là cái ứng thân hay hóa
thân chớ không phải báo thân hay pháp thân vậy.
Hỏi: Tại sao người
Phật tử khi tụng kinh lễ bái hoặc chào hỏi nhau lại chắp tay. Vậy xin hỏi ý
nghĩa chắp tay như thế nào ?
Đáp: Chắp tay, nguyên tiếng Hán Việt là Hiệp chưởng. Tiếng
Phạn là Ãnjali. Hiệp chưởng còn gọi là hiệp thập. Theo Từ Điển Phật Học Huệ
Quang tập 4 trang 2863 có giải thích như sau: “Chắp 2 bàn tay, tập trung tư
tưởng, cung kính lễ bái. Đây là cách lễ bái từ xưa ở Ấn Độ, được Phật giáo thật
hành theo.
Người Ấn Độ cho rằng tay phải là tay thần thánh, tay trái là
tay bất tịnh. Nhưng nếu 2 tay hiệp lại làm một thì trở thành sự hợp nhất giữa
phương diện thánh thiện và nhiễm ô, cho nên hiệp chưởng là biểu hiện bộ mặt chân
thật nhất của con người. Nghĩa " Bất cấu bất tịnh " trong Bát Nhã Tâm Kinh chính
là ý nầy.
Trong các Kinh Luận có rất nhiều chỗ nói về hiệp chưởng, như
Phẩm Phương Tiện Kinh Pháp Hoa (Đại 9,9 Hạ) ghi :" Cung kính hiệp chưởng lễ";
Kinh Quán Vô Lượng Thọ (Đại 12, 345 thượng) ghi: "Hiệp chưởng chắp tay, khen
ngợi chư Phật."
Ngoài việc biểu thị ý cung kính trong tâm, hiệp chưởng
còn biểu thị ý trở về nguồn cội, đạt đến chỗ phi quyền, phi thật, sự lý khế
hợp.
Theo Đại Đường Tây Vực Ký 2, hiệp chưởng là cách thứ tư trong 9 cách
lễ ở Ấn Độ.
Mật Giáo phối hợp 2 tay với Kim Cang giới và Thai Tạng giới,
hoặc lý và trí, hoặc định và huệ v.v... đồng thời phối hợp 10 ngón với 5 đại, 10
Ba La Mật v.v...
Ngoài ra, Đại Nhật Kinh Sớ 13 có nêu 12 cách hiệp chưởng
:
- Kiên thật tâm hiệp chưởng (hai
tay chắp chặt vào nhau các đầu ngón tay bằng nhau).
- Hư tâm hiệp chưởng, còn gọi
không tâm hiệp chưởng (hai tay chắp lại, các đầu ngón tay bằng nhau, hơi rỗng ở
giữa).
- Vị (hai) liên hiệp chưởng (các
ngón tay bằng nhau chắp lại, lòng bàn tay phình ra hình hoa sen búp).
- Sơ các liên hiệp chưởng (chắp
tay 2 ngón cái và 2 ngón út dính lại, các ngón kia hở ra, giống như hoa sen hàm
tiếu).
- Hiển lộ hiệp chưởng (hai bàn tay
chạm đầu, ngửa lên).
- Trì thủy hiệp chưởng (hai tay
cũng ngửa lên như trước, dáng khum lại như đang vốc nước).
- Quy mạng hiệp chưởng, còn gọi
Kim cang hiệp chưởng (đặt ngón của bàn tay mặt lên trên ngón của bàn tay
trái).
- Phản xoa hiệp chưởng (hai tay
chắp ngược đầu nhau đặt tay phải lên tay trái).
- Phản tịch (bối) hổ tương trước
hiệp chưởng (lưng 2 bàn tay đâu nhau, tay phải để ngửa trên lưng bàn tay trái
).
- Hoành trụ chi hiệp chưởng (hai
bàn tay nằm ngửa, đầu 2 ngón trỏ đụng nhau).
- Phúc thử hướng hạ hiệp chưởng
(hai bàn tay nằm úp, đầu 2 ngón trỏ đụng nhau).
- Phúc thủ hiệp chưởng (hai bàn
tay úp xuống hai ngón cái chạm nhau).
Mười hai loại hiệp chưởng nầy đều có ý nghĩa sâu xa khác nhau.
Hỏi: Tại sao khi cúng
vong hoặc tiến linh cho các bậc Tôn Sư, lại đọc 2 bài chú : Biến Thực và Biến
Thủy. Xin hỏi, điều nầy có ý nghĩa gì ?
Đáp: Biến thực
chân ngôn hay biến thực chú, hoặc biến thực đà la ni, đây là thần chú biến hóa
thức ăn để cúng thí cho chư thiên và ngạ quỷ. Về nguyên nhân có ra thần chú nầy,
theo Từ Điển Phật Học Huệ Quang quyển 1 trang 752 có ghi như sau: “Kinh Cứu Bạt
Diệm Khẩu Ngạ Quỷ Đà La Ni có nói: Phật thuyết pháp ở Tăng già lam ni câu luật
na thành Ca tỳ la. Lúc bấy giờ, Tôn giả A Nan ngồi một mình nơi thanh vắng tu
tập thiền định. Sau canh ba, chính Tôn giả A Nan thấy một ngạ quỷ Diệm Khẩu,
thân hình xấu xí khô gầy, trong miệng lửa cháy, yết hầu nhỏ như đầu kim, tóc
rối, răng móng dài nhọn rất đáng kinh sợ.
Ngạ quỷ ấy bảo A Nan rằng: Sau
3 ngày nữa A Nan sẽ chết và cũng đọa vào trong loài ngạ quỷ. A Nan sợ hãi liền
hỏi phải làm cách nào để được thoát khổ? Ngạ quỷ Diệm Khẩu bèn chỉ rõ cho A Nan:
Nếu cúng thí vật thực cho vô lượng ngạ quỷ cùng trăm ngàn Bà La Môn Tiên (là một
loại tiên trong loài quỷ) và cúng dường Tam Bảo rồi hồi hướng công đức cho chúng
để chúng được sanh lên cõi trời và người ấy được tăng thêm tuổi thọ. Tôn giả A
Nan liền đến chỗ Phật, đem việc ấy bạch lên và cầu xin Phật chỉ dạy. Đức Phật vì
ngạ quỷ Diệm Khẩu tuyên nói Đà la ni biến thực chân ngôn có vô lượng oai đức tự
tại quang minh thù thắng diệu lực.
Theo Tiêu Thích Kim Cang Khoa Nghi Hội
Yếu Chú Giải 2 thì hành giả niệm chân ngôn nầy được 3 biến, 7 biến hoặc 21 biến
thì nhờ thần lực của chân ngôn, các vật cúng tự nhiên biến thành các món ăn ngon
của chư thiên, món nào cũng đều rất nhiều như cả núi Tu Di. Thực hành phép biến
thực nầy, trước dùng Tịnh pháp
giới chân ngôn chữ “Lam” và bắt ấn kiết tường
gia trì 21 biến để làm cho thức ăn được thanh tịnh, kế đó niệm Biến thực chân
ngôn rồi sau niệm Phổ cúng dường chân ngôn (Đại 92, 137 hạ) Án, nga nga nẳng,
tam bà phạ, phiệt nhật ra hồng".
Ngoài ra, theo bộ Oánh Sơn Hòa Thượng
Thanh Qui hạ của Nhật Bản thì có thêm chân ngôn rảy nước trì tụng trong hội cúng
thí cho ngạ quỷ (Đại 82, 446 trung) là: Nam mô tát phạ đát tha nga đa, phạ lồ
chỉ đế, án, tam bạt ra, tam bạt ra hồng.
Hỏi: Những người tu
tịnh nghiệp theo pháp môn niệm Phật, mục đích là để cầu sanh Cực Lạc. Muốn như
thế, người tu, ngoài việc niệm Phật ra, còn cần phải có tâm niệm xả ly luyến ái
duyên trần. Thế nhưng, không hiểu sao, người tu tịnh nghiệp khi qua đời lúc đưa
linh cữu thiêu hay chôn, tôi thường thấy hay ghé lại nhà để viếng thăm gia cảnh
lần cuối. Xin hỏi: Điều nầy có trái với bản nguyện xả ly để cầu sanh Tịnh Độ hay
không?
Đáp: Vấn đề nầy, xin được
giải thích qua hai phương diện:
Về phương diện đời, tức Thế tục đế mà
nói, thì điều nầy không có gì trái với lẽ đạo thường tình. Nói rõ hơn là rất phù
hợp với tập tục văn hóa cổ truyền của người Việt Nam. Theo quan niệm của tổ tiên
chúng ta thì, con người sống có cái nhà, thác có cái mồ. Vì vậy, nhà cửa đối với
người Việt Nam rất là quan trọng. Làm chi thì làm, việc đầu tiên là phải có căn
nhà trước đã. Vì thế mới có câu nói là an cư lạc nghiệp.
Khi còn ở Việt
Nam, phần nhiều là người bệnh qua đời ở tại nhà. Dù có chết tại bệnh viện đi
chăng nữa, thì thân quyến của người quá cố nhứt quyết là phải chở người thân của
họ đem về quàn tại nhà để lo việc ma chay tang lễ. Nhưng ngược lại, ở Úc nầy thì
có khác. Người chết phần nhiều là ở trong bệnh viện rồi sau đó người ta đưa thi
thể vào nhà quàn.
Bởi thế, thi thể ít khi quàn tại nhà, vì có nhiều lý do
bất tiện. Bởi vậy, nên khi đưa linh cữu đi thiêu hay chôn, thì thân quyến của
người chết (hoặc có sự di chúc của người chết) hay cho linh xa ghé nhà để cho
hương linh thăm nhà lần cuối cùng. Tuy nhiên, điều nầy, nếu đứng về phương diện
đạo lý giải thoát mà nói, nhứt là đối với những người tu tịnh nghiệp với bản
nguyện là sau khi xả bỏ báo thân nầy nguyện sanh về cõi Cực lạc, thì việc làm
nầy không mấy hợp lý. Lý do tại sao ? Bởi có nhiều lẽ. Xin đơn cử một vài việc
:
Thứ nhứt, trái với bản nguyện lúc sanh tiền. Vì bản nguyện của người
chuyên tu tịnh nghiệp với một tâm nguyện tha thiết là sau khi bỏ báo thân nầy
nguyện sanh về Cực lạc. Đó là một nguyện vọng thiết tha duy nhứt của người
chuyên tu tịnh nghiệp. Đã có một bản nguyện thiết tha như thế, thì đối với việc
nhà cửa của cải vật chất, tất cả chỉ là những thứ phù vân hư huyển có gì quan
trọng đâu mà luyến tiếc viếng thăm. Vả lại, khi viếng thăm cũng đâu có mang theo
được vật gì, chỉ làm tổn hại chướng duyên cho bản nguyện cầu vãng sanh Cực Lạc
mà thôi.
Thứ hai, làm cho hương linh mất chánh niệm khởi tâm luyến ái.
Kinh dạy: “Niệm bất nhứt, bất sanh Tịnh Độ. Ái bất nhiễm, bất sanh Ta Bà”.
Chánh niệm hay tịnh niệm đối với người mới lâm chung thật là quan yếu. Khi chúng
ta đưa họ trở về nhà thăm lại những kỷ niệm mà hằng ngày họ thường ưa thích,
chắc gì họ không khởi niệm luyến tiếc. Hơn nữa, theo trong Kinh nói, những người
chưa phải là cực thiện hay cực ác, thì phải rơi vào thân trung ấm, tất nhiên
thần thức của họ rất là yếu đuối.
Chúng ta chẳng những không trợ duyên
hộ niệm cho họ thức tỉnh, mà còn gây cho họ một thuận duyên ái nhiễm tham trước
như thế, thì thử hỏi làm sao mà họ siêu thoát cho được ? Chúng ta nên nhớ, Phật
dạy, tâm tham ái là đầu mối của sanh tử, chính nó là động cơ thúc đẩy thần thức
tạo nghiệp để thọ khổ. Vì vậy, nếu trong thân quyến thật sự thương thân nhân
ruột thịt của mình, hãy nên nghe theo lời Phật Tổ dạy mà suy xét lại. Nếu là
liên hữu, thì càng nên cẩn trọng trong việc dặn dò con cháu làm điều nầy. Vì nó
chỉ có tác hại thêm, chớ không có lợi lạc gì cả.
Mong quý liên hữu nên
bình tâm suy xét cho thật kỹ. Không ai thấy rõ sự lợi hại bằng chư Phật chư Tổ.
Phật Tổ đã dạy như thế, thì chúng ta chớ nên làm trái ngược lại, mà phải chiêu
cảm quả khổ. Chừng đó, dù có kêu than khóc lóc đến đâu, Phật Tổ cũng không thể
nào cứu chúng ta được. Chi bằng tốt hơn hết là tránh nhân khổ thì không bao giờ
gặt hái quả khổ. Mong lắm thay !
Thứ ba, là trái với việc hộ niệm. Việc
hộ niệm, tức trợ giúp cho người sắp lâm chung giữ được chánh niệm hay tịnh niệm
thật là hết sức quan trọng. Trong gia đình, nếu có người bệnh sắp lâm chung, thì
tất cả thân quyến, bạn bè có đến thăm nên vì người bệnh mà hết lòng niệm Phật.
Trường hợp ở xứ Úc nầy, việc hộ niệm trực tiếp có phần khó khăn. Vì phần nhiều
bệnh nhân khi bệnh nặng đều phải nằm bệnh viện để điều trị. Do đó, mà việc hộ
niệm của thân quyến hay bạn bè có phần trở ngại. Tuy nhiên, chúng ta nên khéo
quyền chước phương tiện bằng cách là mở băng nhựa niệm Phật cho bệnh nhân vừa đủ
nghe. Bệnh nhân nghe liên tục như thế, thì rất là có lợi, vì dễ được định tâm
niệm phật theo.
Đó là một phương tiện hộ niệm rất tốt. Đó là nói, khi
người bệnh còn có chút tỉnh táo. Nếu như sau khi lâm chung rồi, trong những ngày
đầu khi chưa thiêu hay chôn, thì việc hộ niệm vẫn rất cần thiết để giúp cho
hương linh. Hoặc niệm phật, hoặc tụng kinh, hoặc dùng những lời thức nhắc cho
hương linh tỉnh giác, gắng dằn lòng chớ nên bi lụy khóc than mà gây tổn hại cho
hương linh. Nhờ thế, mà hương linh có phần nào hồi tâm chuyển ý, cộng thêm tập
khí tu niệm hằng ngày khi còn sống, thì hương linh mới sớm được siêu thoát.
Ngược lại, đằng nầy, chẳng những chúng ta không thiết thiệt hộ niệm như thế, mà
còn tạo cho hương linh một sự ái nhiễm tham đắm nhà cửa của cải, thì quả thật đó
là một tai hại vô cùng.
Tóm lại, việc đưa hương linh ghé thăm nhà lần
cuối qua câu hỏi của người hỏi, chỉ giới hạn trong phạm vi của người tu tịnh
nghiệp, thì chúng tôi cũng chỉ trả lời góp chút thành ý trong phạm vi đó thôi.
Mong rằng, những liên hữu đang tu tịnh nghiệp, xin quý vị cần nghiệm xét
kỹ lại, để cho việc cầu vãng sanh của mình không bị trở ngại. Điều nầy, ta cần
phải chọn và quyết định một trong hai. Nếu thuận theo duyên đời, thì rất trở
ngại cho việc vãng sanh của mình. Nếu theo bản nguyện của mình, thì đương nhiên
là trái lại với đời. Chúng ta là người tu hành trọn đời chỉ có một việc làm là
niệm phật cầu vãng sanh Cực lạc để thoát kiếp khổ đau luân hồi trầm luân nơi
biển ái, thì thà chấp nhận trái với đời hơn là trái mất bản nguyện của
mình.
Còn một điều ích lợi thực tế hơn nữa là không làm mất thời giờ của
những thân hữu tiễn đưa. Và như thế, thì hương linh càng tăng thêm phước. Bởi
nếu vì mình mà họ phải mất thời giờ, thì mình sẽ bị tổn phước. Đó là điều ích
lợi thực tế thiết thực.
Trên đây, chỉ là những thành tâm góp ý của người
giải đáp dựa theo kinh điển Phật Tổ chỉ dạy, còn việc chọn lựa quyết định thì
tùy ở nơi mỗi người.
Hỏi: Trong Phật giáo,
khi thì nói cái ngã không thật, khi lại nói cái ngã chơn thật. Lắm khi lại còn
đề cao cái ngã cho là độc tôn duy nhứt nữa. Như khi Phật mới ra đời có nói câu:
“Thiên thượng thiên hạ, duy Ngã độc tôn”. Tại sao đồng là ngã, khi nói thật, khi
nói không thật. Như vậy có mâu thuẫn chống trái nhau không ?
Đáp: Không có gì
chống trái nhau cả. Chữ ngã là đọc âm Hán tự, có nghĩa là tôi, ta, hay mình
v.v... Để bạn hiểu rõ hơn về chữ ngã, tôi xin trích một đoạn về phần định nghĩa
chữ ngã trong bộ Từ Điển Phật Học Huệ Quang Tập 5: “Ngã nguyên nghĩa là hô hấp,
chuyển thành nghĩa sanh mạng, tự kỷ, thân thể, tự ngã, bản chất, tự tánh, hoặc
chỉ chung cho chủ thể độc lập vĩnh viễn, tiềm ẩn trong nguồn gốc của tất cả vật
và chi phối cá thể thống nhất. Đây là một trong các chủ đề trọng yếu nhất thuộc
thế giới tư tưởng Ấn Độ”.
Phàm nói ngã phải hội đủ ba yếu tố: “Chủ tể,
thường nhứt và tự tại”. Cái ngã mà Phật giáo phủ nhận hay chủ trương vô ngã, đó
là chỉ rõ cái ngã do quan hệ nhân duyên kết hợp. Đã do nhân duyên kết hợp, tất
nhiên là nó không có chủ tể, không thường nhứt và không được tự tại. Như cái
thân xác mà chúng ta đang mang đây, nhà Phật gọi là cái thân giả tạm, bởi do ngũ
uẩn kết hợp. Ngũ uẩn đó là: Sắc, thọ, tưởng, hành thức. Sắc chất thuộc về phần
tứ đại, tức gồm có 4 nguyên tố tụ hợp tạo thành. Như đất, nước, gió, lửa. Bốn
thứ nầy kết hợp trong nhu cầu cưỡng ép. Bởi thế, nên chúng thường chống trái
nhau và chính vì thế, nên chúng ta thường hay đau yếu luôn luôn.
Đấy là
phần kết hợp vật chất. Còn về phần tinh thần hiểu biết, cũng do bốn thứ kết hợp:
Thọ, tưởng, hành, thức. Thọ là sự cảm nhận vui hoặc buồn, hoặc không vui không
buồn. Tưởng là nhớ lại những việc đã qua hay tưởng tượng đến những việc sắp đến.
Hành là sự biến đổi từng sát na của dòng tâm thức. Thức là sự phân biệt phải
trái tốt xấu v.v... Bốn thứ nầy cấu tạo thành hiện trạng tâm lý.
Như
vậy, mỗi thân thể chúng ta được cấu tạo bởi hai phần: Vật chất và tinh thần. Đã
nói cấu tạo, tất nhiên, là phải do nhiều thứ hợp lại, đã có hợp, tất phải có
tan. Đó là một định lý duyên sinh bất di bất dịch. Do đó, mà nhà Phật gọi thân
nầy là vô ngã (Bởi do nhiều yếu tố hợp thành tạm bợ không thật). Ngược lại, cái
ngã mà nhà Phật gọi là Chơn Ngã tức là cái “Ta” chơn thật.
Nói đến cái
Ta là chỉ cho chủ thể mạng sống. Nhưng mạng sống có hai: Giả tạm và vĩnh hằng.
Mạng sống giả tạm là mạng sống còn bị hệ thuộc trong phạm trù duyên sinh nhân
quả. Còn mạng sống vĩnh hằng, thì vượt ngoài phạm trù duyên sinh nhân quả đối
đãi. Mạng sống nầy, trong nhà Phật nói, có nhiều tên gọi khác nhau. Như Chơn
Ngã, Pháp Thân, Phật Tánh, Niết Bàn, Bản Lai Diện Mục, Chơn Lý Tuyệt Đối
v.v...
Đó là một thực thể bất sinh bất diệt. Câu nói: “Thiên thượng
thiên hạ, duy ngã độc tôn”. Chữ Ngã đây là chỉ cho Chơn Ngã, chớ không phải là
cái ngã tầm thường do nhân duyên kết hợp. Ta không nên hiểu lầm cho rằng Phật tự
cao tự đại, nêu cao cái bản ngã của mình là trên hết. Chữ Ngã nầy là một trong
bốn đức tánh Niết Bàn mà trong Kinh Đại Bát Niết Bàn Phật đã nêu ra: Chơn
Thường, Chơn Lạc, Chơn Ngã, Chơn Tịnh.
Trong Kinh Kim Cang Bát Nhã có bài
kệ :
Nhược dĩ sắc kiến ngã
Dĩ âm thanh cầu
ngã
Thị nhơn hành tà đạo
Bất năng kiến Như
Lai.
Tạm dịch :
Nếu người nào dùng sắc thấy ta
Dùng âm
thanh cầu ta
Người ấy hành đạo tà
Không thể thấy được Như Lai.
Muốn
thấy được Như Lai phải thấy bằng cách nào? Không thể thấy bằng mắt thịt qua hình
ảnh sắc tướng của Phật (vì sắc tướng do duyên hợp, nên vô ngã) Cũng không thể
dùng tai nghe âm thanh của Phật mà cho là thấy Phật (vì tiếng cũng do duyên hợp
giả có) Như vậy, người nào chạy theo trên hình tướng hay âm thanh để tìm phật,
thì bị Phật quở là kẻ đó hành đạo tà, không bao giờ thấy được Phật.
Thế
thì, muốn thấy Phật, ta không thể thấy bằng mắt thịt mà phải thấy bằng tâm, tức
thầm nhận ra được cái thực thể hằng thanh tịnh sáng suốt, bất sanh bất diệt
trong mỗi con người của chúng ta, đó là thấy được Phật hay Như Lai. Như Lai ở
đây, ta phải hiểu là Phật pháp thân, chớ không phải là Phật báo thân. Mà Phật
pháp thân đó là tên khác của Chơn ngã hay Đại ngã. Người nào trực nhận được tánh
thể sáng suốt nầy, thì gọi người đó là ngộ đạo hay kiến tánh.
Tóm lại,
khi nói ngã không thật, tất nhiên, ta phải hiểu đó là cái ngã do nhân duyên cấu
tạo hợp thành. Tạm gọi là giả ngã (Giả có cái ta trống rỗng tạm sinh hoạt trong
một thời gian). Còn nói Chơn ngã, thì ta biết đó là cái Ngã vượt ngoài duyên
sinh đối đãi. Cái Ngã đó không hình, không tướng, tạm gọi là Chân ngã hay Chân
lý tuyệt đối v.v...
Hỏi: Khi đức Phật ra
đời, Ngài bước đi bảy bước rồi dừng lại mà không bước tám bước hay sáu bước, rồi
trên mỗi bước lại có một hoa sen. Vậy xin hỏi: bảy bước là tượng trưng cho ý
nghĩa gì ?
Đáp: Vấn đề nầy có nhiều
thuyết giải thích khác nhau. Cho đến nay, người ta cũng chưa nhứt trí là thuyết
nào đúng. Vì mỗi thuyết có mỗi lập luận khác nhau. Có thuyết nói: theo quan niệm
của Phật giáo nói riêng và quan niệm của người Ấn Độ thuở xưa nói chung, tất cả
đều cho rằng: Sự hình thành của một thế giới là do sự cấu tạo của nhiều hạt vi
trần kết hợp lại. Nếu nói theo khoa học ngày nay là do nhiều nguyên tử hay phân
tử kết hợp. Từ những hạt vi trần nhỏ kết hợp lại thành những vi trần lớn. Cứ như
thế mà kết hợp dần lên thành ra một thế giới. Tuy nhiên, sự kết hợp của những
hạt vi trần nầy theo phương cách nào? Điều nầy, theo nhà Phật nói, chính giữa có
một cái hạt nhân chánh, rồi chung quanh có sáu hạt vi trần phụ. Chung lại, theo
danh từ chuyên môn của Phật giáo gọi là thất lân hư trần. Tức là 7 hạt bụi rất
nhỏ nhiệm gần như hư không kết hợp lại, nếu chẻ ra, thành ra hư
không.
Từ thất lân hư trần hợp lại, thành một ngưu mao đầu trần (đầu
lông con trâu). Từ thất ngưu mao đầu trần hợp lại, thành một thố mao đầu trần
(đầu lông con thỏ) v.v..
Như vậy, con số 7 có ra là do nhiều hạt bụi tạo
thành. Nói rõ ra, là không có hạt bụi nào tự nó đơn độc mà có, tất nhiên, là nó
phải nhờ nhiều hạt bụi li ti khác để tạo thành. Bởi thế, nên hình ảnh đức Phật
khi mới giáng sanh, Ngài bước đi bảy bước là để tiêu biểu cho Ngài bước đi khắp
tất cả mọi nơi trên thế giới. Đồng thời cũng để tiêu biểu cho pháp âm của Ngài
nói ra vang dội khắp cả tam thiên đại thiên thế giới. Còn hoa sen là tiêu biểu
cho sự thanh khiết. Ý nói, mặc dù đức Phật sanh ra trong cõi đời ô trược nầy,
nhưng Ngài không bao giờ bị nhiễm trần. Đó là vì nguyện lực của Ngài ra đời là
để hóa độ chúng sanh vậy.
Hỏi: Tôi thấy có một
vài đám tang trong giới Phật tử của mình, thân quyến có viết cáo phó là: “Miễn
Phúng Điếu”, (không nhận tiền) hỏi ra, thì họ nói: Nếu nhận tiền, thì người chết
phải mắc nợ. Vậy xin hỏi: nhận tràng hoa người ta phúng điếu, thì người chết có
mắc nợ hay không? Và nếu so sánh giữa tiền và tràng hoa, thì cái nào có lợi ích
thiết thực hơn?
Đáp: Nếu căn cứ theo luật nhân quả, thì phàm hễ có vay, tất
nhiên phải có trả. Nếu bảo nhận tiền, thì người chết mắc nợ, vậy thì nhận tràng
hoa, người chết không mắc nợ hay sao? Tràng hoa đâu phải tự nhiên mà có, tất
cũng phải dùng tiền để mua. Chẳng qua dưới một hình thức khác thôi. Như vậy, bạn
bè thân thuộc đến phân ưu phúng điếu, vì ai mà họ phúng điếu, tất nhiên là vì
người chết. Nếu không có người chết, thì họ đâu có phúng điếu. Do đó, đương
nhiên là người chết phải mang nợ.
Tuy nhiên, vấn đề được đặt ra ở đây
là, việc phúng điếu bằng tràng hoa phát xuất từ đâu? Và có phải đó là một tập
tục của người Việt Nam chúng ta hay không ?
Theo chỗ chúng tôi được biết,
thì việc phúng điếu bằng tràng hoa là do người Việt mình ảnh hưởng người Tây
phương. Vì người Tây phương họ rất yêu chuộng hoa tươi. Chúng ta cũng không lạ
gì, khi thấy họ đến thăm thân nhân hay bạn bè thân, trên tay của họ thường có
một bó hoa tươi. Đây là để biểu lộ tấm lòng thân thương của họ. Đây cũng là một
tập tục hay đẹp của họ. Do đó, nên người mình bắt chước làm theo. Điều nầy, nếu
xét theo phong tục xưa của ta, như trong quyển Phong Tục Việt Nam của giáo sư
Toan Ánh đã viết: “Phúng là lễ vật đi điếu người chết, còn viếng nghĩa là thăm.
Ta thường nói phúng viếng hoặc phúng điếu nghĩa là đem lễ vật tới hỏi thăm nhà
có tang.
Người chết sau khi đã nhập quan và tang chủ đã làm lễ thành
phục, con cháu khóc lóc, bạn bè thân thuộc mới bắt đầu tới phúng điếu. Trước đó,
cũng có người tới, nhưng chỉ là để hỏi thăm và chia buồn cùng tang chủ chứ chưa
có lễ viếng và cũng chưa lễ trước linh cữu.
Lễ phúng viếng thường là trầu
cau trà rượu, hoặc những tay văn tự thì dùng những bức trướng hoặc những đôi câu
đối, trong nêu lên những đức hay tính tốt của người chết.
Con cháu cũng
có câu đối để khóc ông bà cha mẹ. Những trướng đối của bạn bè thường làm bằng
lụa, bằng da màu xanh, vàng, trắng, còn những câu đối của con cháu chỉ viết bằng
chữ xanh hoặc chữ đen trên vải trắng.
Ở thôn quê, người trong làng xã
thường dùng tiền để phúng viếng, một cách trực tiếp giúp đỡ thiết thực tang chủ
trong lúc cần thiết v.v..." (Phong Tục Việt Nam, Toan Ánh, trang 512, nhà xuất
bản Đại Nam ).
Chúng tôi trích dẫn những đoạn văn trên để chúng ta biết
sơ qua về phong tục phúng điếu của ông bà ta ngày xưa là như thế. Từ ngày người
Tây phương có mặt ở xứ ta, nhứt là trong thời kỳ chiến tranh có quân đội Mỹ, mỗi
khi một quân nhân cấp lớn tử trận, thì người chết sẽ được nhận những tràng hoa
danh dự, tưởng niệm thân thiết phúng điếu. Và cũng từ đó, người dân thành thị
bắt chước theo hay dùng hoa tươi hoặc hoa cườm để phúng điếu cho người chết.
Ngược lại, ở thôn quê thì lại khác. Chúng ta thấy, trong làng xã có
người mất, thì người ta thường dùng tiền để phúng điếu. Đây là một hình thức
trực tiếp giúp đỡ cho tang chủ tiện bề chi dụng trong lúc cần thiết. (Người viết
đã chứng kiến nhiều đám táng ở thôn quê là như thế).
Đây cũng là một tập
tục rất hay và rất thực tế trong việc tương tế. Tổ tiên ta có câu: “Nhứt gia hữu
sự bá gia ưu”. Nghĩa là, một nhà có việc, thì trăm nhà đều chung lo. Điều nầy,
vừa nói lên tinh thần tương thân tương trợ của người dân quê mộc mạc, cũng vừa
nói lên tình đoàn kết keo sơn gắn bó tình tự của một dân tộc hiền hòa.
Chính vì tinh thần hỗ tương sớm tối có nhau nầy, nên ta thấy, ngoài việc
bà con thân hữu xúm xít nhau lại chung lo đám sám, họ còn nghĩ đến việc giúp đỡ
tiền bạc cho gia đình người chết có chút ít phương tiện để xoay trở tiêu phí
trong việc tang lễ. Vì vậy, ở thôn quê, ít có gia đình nào từ khước không chấp
điếu. Vì họ nghĩ, hôm nay mình nhận của người ta, thì mai kia mình sẽ đi trả
lại. Giống như một hình thức cho vay mà không lời vậy.
Tuy nói là vì
người chết, mà kỳ thật là vì giúp đỡ cho người sống. Nếu là người khá giả, có đủ
khả năng, thì họ sẽ đem số tiền mà bà con phúng điếu để làm những việc từ thiện
giúp ích cho xã hội hoặc cúng chùa v.v... Việc làm đó, hương linh chẳng những
không mắc nợ, mà còn được tăng thêm phước đức nữa. Còn nếu như những gia đình
nghèo không đủ khả năng chi dụng cho đám sám, thì tạm thời họ dùng số tiền nầy
để trang trải cho việc tang lễ, rồi sau đó, con cháu hoặc người thân từ từ họ sẽ
đi hoàn trả lại.
Như thế, trên thực tế, ta thấy người chết như mắc nợ,
nhưng xét cho cùng, thì đây là một hình thức tương trợ lẫn nhau mà thôi. Theo
tôi, đây là một hình thức tương trợ vừa giữ được tập tục xưa mà cũng vừa ích lợi
rất thực tế, nếu chúng ta khéo sử dụng đồng tiền nầy vào những việc làm hữu ích
cho xã hội.
Ngược lại, đối với những tràng hoa, xét ra, chỉ tô điểm cho
tang lễ thêm phần trang trọng, chỉ dùng được một hai ngày, rồi sau đó khi đưa
đám đến huyệt mộ hay đến lò thiêu, thì những tràng hoa nầy cũng theo người chết
mà vứt bỏ luôn, thật là uổng phí! Chi bằng, nếu trong thân quyến e ngại sự nhận
tiền phúng điếu của bằng hữu, thì ta có thể làm theo phương cách mà
qua việc
đề xướng nầy, chúng tôi thấy quý liên hữu phật tử hưởng ứng rất mạnh mẽ. Và mỗi
người đem hết lòng thành của mình để thực hiện những điều mà mình đã phát
nguyện. Tất cả chỉ vì hương linh và cho hương linh. Đây mới thật là một loại
Tràng Hoa thật vô cùng quý giá. Âm vang của những việc làm nầy, như tụng kinh,
niệm phật, công quả, làm phước v.v... nó vẫn còn vang dội mãi cho đến trải qua
hết 49 ngày, chớ không như những đám khác, là khi bạn bè hay đồng đạo đưa đám
xong rồi, thì người chết sẽ đi vào trong quên lãng, không còn ai nhớ biết đến để
cầu nguyện dù đó là một câu hiệu phật.
Riêng chúng tôi, chúng tôi nhận
thấy điều nầy rất phù hợp với tinh thần vị tha của Phật giáo và cũng rất phù hợp
trong việc hộ niệm cho hương linh trong tinh thần nhiếp tâm cầu nguyện, gọi là
đức chúng như hải vậy.
Trên đây, là góp chút thành ý của người phụ trách
mục giải đáp nầy. Mong rằng tất cả liên hữu, phật tử chúng ta, tưởng cũng nên
suy xét lại cho thật kỹ, để chúng ta có thể chuyển đổi qua một hình thức như Đại
Đức Thích Phước Tấn đã làm vừa qua trong đám tang của phật tử Nguyễn thị Hoàng
Ánh. Qua đó, theo tôi được biết, mọi người đều rất hoan hỷ tán đồng. Vì nó rất
hữu ích cho cả hai: kẻ còn và người mất đều được lợi lạc vậy.
Hỏi: Cùng tu theo đạo
Phật, nhưng không hiểu sao giữa Phật giáo Nam Tông và Phật giáo Bắc Tông lại thờ
phụng Phật khác nhau ở trong các chùa. Bên Nam Tông thì chỉ thờ duy nhứt một
tượng Phật Thích Ca và các vị A la hán, giống người Ấn Độ. Ngược lại, Phật giáo
Bắc Tông, ngoài việc thờ đấng Trung Tôn đức Phật Thích Ca Mâu Ni ra, còn thờ
nhiều tượng Phật và Bồ tát khác nữa. Riêng hình tượng Phật Thích Ca, thì quốc
gia nào tạc tượng thờ giống người quốc gia đó. Xin hỏi: Tại sao có sự khác biệt
như vậy?
Đáp: Sở dĩ có sự
thờ phụng khác biệt đó, là do quan niệm về việc thờ phụng Phật của hai hệ phái
khác nhau. Theo quan niệm của Phật giáo Nam Tông, tức Phật giáo Nguyên Thủy, họ
cho rằng, đức Phật Thích Ca Mâu Ni là một con người bình thường như bao nhiêu
con người bình thường khác. Ngài cũng có những nhu cầu cho đời sống: ăn, mặc, ở
v.v… và cũng chịu chung một định luật vô thường chi phối, phải trải qua những
nỗi thống khổ của kiếp nhơn sinh là sanh, già, bịnh, chết. Tuy nhiên, Ngài chỉ
khác hơn người thường là ở chỗ, Ngài đã hoàn toàn giác ngộ, do sau khi xuất gia
nỗ lực tu hành mà thành đạt được đạo quả.
Ngược lại, chúng sanh vì còn
mê, nên tạo nghiệp thọ khổ trong vòng sanh tử luân hồi. Phật đã thoát hẳn sanh
tử luân hồi. Khác nhau ở điểm căn bản giữa mê và ngộ đó thôi.
Theo Nam
Tông, thì ngoài đức Phật Thích Ca ra, không có một vị Phật nào khác. Do đó, họ
chỉ tôn thờ một hình tượng Phật Thích Ca và tạc hình tượng giống như người Ấn
Độ, bởi lẽ, Phật là người Ấn Độ đi tu thành Phật. Đó là một quan niệm dứt khoát
thực tiễn của hệ phái Phật giáo Nguyên Thủy, xuất phát từ bốn bộ kinh Nikaya.
Ngược lại, Phật giáo Bắc Tông (tức Phật giáo Phát triển hay Đại thừa),
thì quan niệm có khác. Theo Bắc Tông, thì đức Phật Thích Ca khác hơn người
thường. Cái thân của Phật, đó chỉ là cái ứng thân hay hóa thân thị hiện mà thôi.
Vì muốn độ chúng sanh, nhứt là loài người, nên đức Phật mới thị hiện ở nơi loài
người để tiện bề giáo hóa họ. Kỳ thật, thì đức Phật đã thành Phật từ vô lượng
kiếp rồi. Vì Bắc Tông quan niệm rằng, mỗi chúng sanh đều có Phật tánh hay pháp
thân, mà pháp thân thì lặng lẽ, không sanh, không diệt, trùm khắp cả pháp giới.
Bởi thế, nên không nơi nào, xứ nào mà chẳng có Phật. Cái thân Phật thị hiện
người Ấn Độ, chỉ là trong một giai đoạn tạm thời trong muôn triệu giai đoạn, một
hóa thân trong muôn triệu hóa thân.
Qua đó, thì đức Phật Thích Ca không
hẳn là người Ấn Độ mà là người của tất cả chúng sanh. Vì tùy duyên ứng hiện hay
hữu cảm tất ứng, nên người nước nào tưởng nhớ Phật, thì Phật hiện người nước đó
để giáo hóa. Những vị Phật khác cũng thế, các Ngài hỗ tương để hóa độ chúng sanh
và đồng thời giới thiệu công hạnh cho nhau.
Như đức Phật Thích Ca giới
thiệu nhân địa và công hạnh của đức Phật A Di Đà ở cõi Tây phương Cực lạc, cho
chúng sanh cõi nầy được biết, để niệm danh hiệu Ngài mà cầu sanh về cõi đó. Đến
chư Bồ tát cũng thế, các Ngài thị hiện khắp các cõi. Bất cứ nơi nào có chúng
sanh đau khổ, khẩn cầu cứu độ, thì các Ngài thị hiện để cứu khổ. Đó là bản hoài
của các vị Bồ tát, dù ở cõi Ta bà nầy hay ở những quốc độ khác, như Bồ tát Quán
Thế Âm chẳng hạn.
Đồng thời, các vị Bồ tát cũng trợ lực cùng với chư
Phật để độ sanh, mỗi vị đều có những công hạnh thù thắng đặc biệt. Bởi do quan
niệm như thế, nên chúng ta thấy các nước Phật giáo theo hệ phái phát triển (Đại
thừa), mỗi quốc gia đều tạc hoặc tô vẽ hay đúc hình tượng Phật Thích Ca, đều có
những nét giống người của họ; vì như thế mới thực sự là Phật giáo của họ, vì mỗi
người đều có ông Phật của riêng mình. Và như thế, mới thực sự thân thiết gần
gũi, dễ cảm hóa. Đây cũng là một sắc thái văn hóa đặc thù. Vì vậy, nên các chùa
Phật giáo Bắc Tông đều tôn thờ nhiều vị Phật và nhiều vị Bồ tát.
Hỏi: Là một phật tử
tu theo pháp môn niệm Phật, con thường lần tràng hạt để niệm Phật. Tuy nhiên,
thú thật là con chưa hiểu rõ ý nghĩa của nó như thế nào. Tại sao phải xâu kết
làm 108 hạt, mà không phải là 107 hay 109? Như vậy, 108 có ý nghĩa gì? Và tại
sao khi niệm Phật, tay cần phải lần chuỗi? Nó có công dụng gì cho việc diệt trừ
phiền não không?
Đáp: Tràng hạt là một phương tiện trong muôn ngàn phương tiện khác.
Trong Phật giáo có vô số phương tiện. Mọi hình thức pháp khí hay vật thể đều là
những phương tiện. Tuy nhiên, không phải vô cớ mà người ta bày ra. Dĩ nhiên, mỗi
một hình thức của một vật thể đều có một ý nghĩa biểu trưng đặc biệt của nó.
Thí dụ như cái mõ, cái chuông, cái trống v.v… Điều quan trọng cần nêu ra
là: Nương phương tiện để đạt cứu cánh, tức như nhờ nôm mà bắt được cá, nhờ ná mà
bắn được chim. Nếu nói theo cung cách ngôn ngữ của nhà Thiền thì “kiến sắc minh
tâm”. Nói cách khác là: “nương sự để hiển lý, sự lý phải viên dung”. Đó là cái
chủ đích chính yếu mà Phật giáo nhắm tới và đó cũng là thái độ khôn khéo của
người tu học Phật.
- Câu hỏi thứ nhứt là tại sao người ta xâu chuỗi kết
108 hạt mà không phải 107 hay 109 ?
Xin thưa: sở dĩ có con số 108, là vì
người ta đem 6 căn, 6 trần và 6 thức cộng lại, thành ra thập bát giới (18) rồi
nhân cho 6 món căn bản phiền não (tham, sân, si, mạn, nghi, ác kiến) thành ra có
con số là 108 (18 x 6 = 108). Tuy nhiên, ở đây, chúng tôi cũng xin được giải
thích thêm một chút về con số 108 tượng trưng nầy.
Như chúng ta đều
biết, trong khế kinh Phật có dạy, sở dĩ chúng sanh cứ trôi lăn mãi trong vòng
sanh tử luân hồi, gốc từ ở nơi vô minh. Mà vô minh có ra, gốc từ ở nơi căn, trần
và thức. Thường gọi chung là Thập bát giới.
Ba thứ nầy, nếu xét kỹ, thì
chúng ta thấy, lỗi là ở nơi căn và thức, chớ trần (6 trần cảnh: sắc, thinh,
hương, vị, xúc, pháp) không có lỗi gì cả, vì chúng chỉ là đối tượng nhận thức
của căn và thức mà thôi. Khi căn (tức 6 căn: nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý) tiếp
xúc với trần (6 trần nói trên) khởi thức (6 thức nói trên) phân biệt. Khi ý thức
phân biệt lại cộng thêm 6 món căn bản phiền não vào. Nói rõ hơn là 6 món căn bản
phiền não nói trên, chúng hợp tác cùng chung làm việc với Ý thức một cách rất
chặt chẽ, đắc lực, nên mới có phân biệt tốt xấu, rồi sanh tâm yêu ghét. Cái
niệm yêu ghét phát sanh là gốc từ ở nơi: tham, sân, si. Đây là đầu mối của vô
minh phiền não (vọng tưởng) .
Từ đó, mới tạo nghiệp để thọ khổ. Nếu nói
một cách nghiêm khắc và ngắn gọn hơn nữa, thì như kinh Lăng Nghiêm, Phật có nêu
ra: “luân hồi hay giải thoát, gốc từ ở nơi 6 căn mà ra”. Như vậy, cho chúng ta
thấy rằng, ba thứ nầy tối hệ trọng mà mỗi hành giả cần phải thẩm sát thật kỹ để
đoạn trừ phiền não. Mà muốn đoạn trừ phiền não, thì hành giả cần phải có phương
tiện, hay một pháp môn hành trì. Đối với người tu tịnh nghiệp, thì Phật Tổ đều
dạy cần phải niệm Phật. Mà pháp môn niệm Phật, để đi đến nhứt tâm, thì bước đầu
cần phải có phương tiện để cột tâm. Phương tiện đó, ngoài câu niệm Phật ra, còn
cần phải có thêm tràng hạt để lần từng hạt theo mỗi câu hiệu Phật làm chuẩn cứ
trong khi niệm Phật công cứ vậy.
- Đến câu hỏi thứ hai, tại sao khi niệm
Phật, tay phải lần chuỗi?
- Xin thưa rằng: không phải nhứt thiết ai niệm
Phật cũng lần chuỗi cả. Điều nầy, còn tùy theo căn tánh và thói quen của mỗi
người. Tuy nhiên, đối với những liên hữu nào đã phát nguyện niệm Phật công cứ,
theo lời chư Tổ Liên tông đã chỉ dạy, thì cần nên lần chuỗi để tiện bề đếm số
đúng như lời mình đã phát nguyện. Bởi vì đối với những người sơ cơ, nhiều
nghiệp chướng như chúng ta, tâm chưa thuần nhứt, còn dẫy đầy vọng tưởng tạp
loạn, thì tốt hơn hết nên dùng phương tiện tay lần chuỗi, để khi niệm Phật dễ
cột tâm hơn, như trên đã nói. Hơn nữa, chúng ta cũng thường nghe nói, người tu
tịnh nghiệp, thì tam nghiệp (thân, khẩu, ý) cần phải giữ thanh tịnh. Tay lần
chuỗi thuộc về thân nghiệp, miệng niệm Phật thuộc về khẩu nghiệp, ý chuyên chú
vào câu hiệu Phật không rời ra, thuộc về ý nghiệp. Rồi cũng trong kinh nói:“Tam
nghiệp hằng thanh tịnh, đồng Phật vãng Tây phương”. Như vậy, tay lần chuỗi cũng
là mục đích để ghi nhớ mỗi một hạt chuỗi là niệm một câu hiệu Phật, đồng thời
cũng là để ghi nhớ số không lộn lạo vậy.
- Đến câu hỏi thứ ba, nó có công
dụng gì cho việc diệt trừ phiền não không?
Xin thưa: đương nhiên là có.
Như trên đã nói, công dụng của nó chỉ là một phương tiện như muôn ngàn phương
tiện khác. Người ta dùng nó để niệm Phật. Nhờ lần chuỗi ghi số câu mà tâm ít tán
loạn hơn. Tuy nhiên, điểm căn bản để diệt trừ phiền não, chính là ở nơi cái tâm.
Người niệm Phật, tay lần chuỗi mà tâm lăng xăng, nghĩ xằng, tính bậy, chạy đông,
chạy tây, thì đó chỉ là miệng niệm cho có niệm, chứ không thể nào kết quả định
tâm được.
Mục đích chính của việc niệm Phật là để được định tâm. Vì niệm
Phật là nhớ Phật, đằng nầy Phật không nhớ, mà nhớ những chuyện tào lao khác,
niệm như thế, thì đâu có đúng ý nghĩa niệm Phật. Thế nên, muốn sớm mau hết phiền
não, thì hành giả phải giữ tâm và tiếng cho hợp nhất và phải thường xuyên khắn
khít nhau, đồng thời niệm câu hiệu Phật phải thật cho rành rõ. Trong quyển sách
Hạ Thủ Công Phu niệm Phật, Đại lão Hòa Thượng Thích Trí Tịnh có khuyến nhắc
người niệm Phật bằng một bài kệ như sau:
Nam mô A Di
Đà!
Không gấp cũng không hưởn
Tâm tiếng hiệp khắn
nhau
Thường niệm cho rành rõ
Nhiếp tâm là định
học
Nhận rõ chính huệ học
Chánh niệm trừ vọng
hoặc
Giới thể đồng thời đủ
Niệm lực được tương
tục
Đúng nghĩa chấp trì danh
Nhứt tâm Phật hiện
tiền
Tam muội sự thành tựu
Đương niệm tức vô
niệm
Niệm tánh vốn tự không
Tâm làm Phật là
Phật
Chứng lý pháp thân hiện
Nam Mô A Di
Đà!
Nam Mô A Di Đà!
Cố gắng hết sức mình
Cầu
đài sen thượng Phẩm.
Hỏi: Nhìn phù hiệu
bánh xe có 12 căm, có người nói, đó là bánh xe luân hồi. Họ giải thích 12 căm là
tượng trưng cho Thập nhị nhân duyên. Có người lại nói, đó là bánh xe Chuyển pháp
luân. Xin hỏi: Qua 2 điều nói trên, không biết điều nào đúng ?
Đáp: Nếu bảo điều nào đúng, thì chúng tôi xin được thưa
ngay: người nói bánh xe có 12 căm, tượng trưng cho bánh xe luân hồi là đúng. Lý
do tại sao? Tại vì giáo lý 12 nhân duyên từ “Vô minh đến Lão tử” là một chuỗi
xích, một vòng lẩn quẩn mà chúng sanh bị trói buộc mãi trong “Tam giới lục đạo”.
Muốn thoát khỏi hay cắt đứt chuỗi xích trói buộc nầy, thì mỗi người cần phải
đoạn trừ vô minh, vì nó là tên thủ phạm chính gây ra đau khổ. Do đó, người ta
dùng hình ảnh bánh xe có 12 căm để nói lên cái ý nghĩa luân hồi mà con người cứ
mãi trầm luân thọ khổ.
Còn bánh xe chuyễn pháp luân, thì người ta làm
bánh xe có 8 căm để tượng trưng. Con số 8 là tượng trưng cho Bát chánh đạo. Bát
chánh đạo gồm có: Chánh kiến, Chánh tư duy, Chánh ngữ, Chánh nghiệp, Chánh mạng,
Chánh tinh tấn, Chánh niệm, Chánh định. Vì trong Tứ diệu đế ( Khổ, Tập, Diệt,
Đạo), thì Bát chánh đạo thuộc về Đạo đế. Đạo đế gồm có 37 phần hay phẩm, thường
gọi là 37 phẩm trợ đạo. Ba mươi bảy phẩm trợ đạo gồm có: Tứ niệm xứ, Tứ chánh
cần, Tứ như ý túc, Ngũ căn, Ngũ lực, Thất bồ đề phần và Bát chánh đạo phần.
Trong 37 phẩm trợ đạo nầy, thì Bát chánh đạo là quan trọng hơn cả. Vì đó là tám
con đường đưa chúng sanh đến chỗ giác ngộ giải thoát. Nói cách khác, đó là 8
phương pháp diệt khổ để đạt được Niết bàn an lạc ( Diệt đế ). Do đó, để nhắc nhở
mọi người luôn nhớ đến tám con đường quan trọng nầy, nên người ta dùng bánh xe
có 8 căm để biểu trưng cho ý nghĩa chuyển pháp luân vậy.
Hỏi: Ai cũng biết,
Đức Phật vì lòng từ bi, nên Ngài mới thị hiện ra đời để hóa độ chúng sanh. Đã
thế, thì lẽ ra, sau khi Ngài chứng quả đạt đạo rồi, phải đi thuyết pháp hoằng
hóa độ sanh ngay, chớ tại sao lúc đầu Ngài có ý là muốn nhập diệt, rồi phải chờ
đợi chư Thiên cung thỉnh Ngài, bấy giờ Ngài mới chiều theo ý chư Thiên mà đi
hoằng hóa. Xin hỏi: Như thế, thì có trái với bản nguyện hay bản hoài ban đầu của
Ngài khi ra đời không ?
Đáp: Xin thưa, không có gì
là chống trái cả. Đọc lịch sử đức Phật, chúng ta đều biết, sau khi đắc đạo dưới
cội bồ đề, hẳn nhiên, lúc đầu, Ngài có ý định nhập diệt. Lý do tại sao? Bởi vì,
cái chân lý mà Ngài mới thâm chứng, nó quá cao siêu. Trong khi đó, căn cơ của
chúng sanh thì quá nông cạn, nên khó có thể lãnh hội. Cho nên, lúc đầu, đức Phật
có khởi ý muốn nhập Niết bàn.
Điều nầy, nếu xét kỹ, chúng ta thấy rất hợp
lý. Hợp lý ở chỗ, cái mà đức Phật muốn đem ra chỉ bày cho chúng sanh, thì nó quá
siêu việt vượt hơn trí năng thường tình của con người. Nếu nói ra, chắc gì họ
hiểu được. Chẳng những không hiểu thôi mà họ còn kích bác chống lại, thì đó là
một điều thật tai hại vô cùng.
Thí dụ một người vừa mới tốt nghiệp tiến
sĩ, có thể nào ông ta đứng trước giữa một đám người mà trình độ học vấn của họ
chưa xong lớp tiểu học, để thuyết giảng cái đề tài luận án tiến sĩ mà ông ta mới
vừa đạt được không? Ông ta biết chắc rằng, họ không thể nào nghe mà lãnh hội
được. Do đó, ông ta không thể nào đứng ra thuyết giảng. Dẫu ông có thuyết giảng,
người nghe không hiểu, họ sẽ sanh tâm chê bai khinh thường và tệ hơn nữa là họ
sẽ chống đối kích bác. Như thế, nếu không khéo ông sẽ là người có tội. Vì chính
ông gây ra cho người ta có niệm khinh chê. Dù rằng, trong lòng ông ta rất thương
xót những người đó.
Đức Phật cũng thế. Lúc đầu, Ngài cảm thấy rất khó
khăn trong sự du thuyết hóa độ.
Điểm thứ hai, một chân lý cao siêu như
thế, không thể tự nhiên Phật rao bày thuyết giảng. Bởi chung quanh Ngài toàn là
ngoại đạo. Hơn nữa, nếu Ngài nói liền, e rằng, người ta có ý khinh thường. Cái
gì người ta khao khát mong muốn, thì điều mình nói mới có giá trị. Thế nên, phải
có người cung thỉnh, Phật mới thuyết giảng. Đây là một khía cạnh tâm lý rất độc
đáo, mà ta cần phải học. Vào tai ra miệng, không khéo trở thành khua môi múa
mép. Vì thế, sự cung thỉnh của các vị Phạm thiên thật đúng thời và hợp lý.
Nhờ vào sự cung thỉnh của các vị đó, bấy giờ đức Phật mới nghĩ đến
phương cách giáo hóa. Đồng thời, Ngài quán sát căn cơ để rồi Ngài sẽ theo thứ
lớp mà hóa độ. Những ai hữu duyên, thì Ngài độ họ trước. Và cuối cùng, Ngài
không bỏ sót một ai. Ngài chuyển hóa tất cả, không một giai cấp nào mà Ngài
không độ họ. Như thế, lòng từ bi của Ngài thật quá tràn trề. Vì đó là bản hoài
của Ngài ra đời. Một bản hoài như trong Kinh Pháp Hoa đã nói: Khai « tri kiến
Phật » cho tất cả chúng sanh. Và mục đích tối hậu của đức Phật là mong muốn mọi
người đều thể nhập Tri kiến Phật đó.
Nhưng có một điều họ thua ta là
không gặp Phật pháp để tu. Một khi họ hưởng hết phước báo rồi, họ cũng phải trở
lại nhơn gian để bắt đầu tu lại. Như thế luận cho cùng cũng chưa biết ai hơn ai?
Nói thế, để thấy các vị trời hơn phước ta một bậc, thế mà Phật còn cấm người
phật tử không được nương theo họ, hà tất gì đối với các loại Quỷ, Thần là những
vị kém phước báo hơn chư Thiên, thế mà ta lại tin tưởng quy y với họ sao? Tin
tưởng như thế, thì chỉ chuốc lấy thêm tai hại cho ta mà thôi, vì chính mình đã
đi ngược lại với giáo lý nhân quả Phật dạy, và gởi gắm thân phận mình ở một nơi
mơ hồ mông lung nào đó, mà quên đi hạnh phúc hay khổ đau, tất cả đều do chính
mình định đoạt lấy đời mình.
Hỏi: Đạo Phật là đạo
giác ngộ. Mọi sự mê tín không bao giờ đạo Phật chấp nhận. Thế thì xin hỏi: Tại
sao chúng tôi thấy rãi rác trong các kinh lại có nêu ra các vị Thần, như Thiên
Thần, lâm Thần, thọ Thần, Quỷ, Thần v.v... điều nầy, có ý nghĩa gì ? Có phải
Phật giáo cũng tin có Quỷ, Thần mơ hồ hay không? Và có phải Phật giáo cũng tin
tưởng vào đa Thần giáo không?
Đáp: Xin thưa, Đạo Phật dứt khoát không bao giờ chấp nhận
việc mê tín Thần quyền, nhứt là những vấn đề tin nhảm nhí, theo một niềm tin mù
quáng, không được điều động bởi lý trí. Phật giáo cũng không chủ trương lấy việc
cúng tế Quỷ, Thần như là một điều van xin cầu khẩn để được các vị Thần linh ban
phước, giải khổ. Tuy nhiên, theo quan niệm của Phật giáo, thì giữa vũ trụ bao
la, thế giới vô lượng, và lẽ dĩ nhiên có vô số chúng sanh xuất hiện dưới mọi
hình thức tùy theo nghiệp quả của mỗi loài mà có ra thiên hình vạn trạng sai
biệt. Sự sai biệt đó, theo kinh điển của Phật giáo cho chúng ta biết, thì tùy
theo nghiệp nhân của mỗi loài đã tạo, nên quả báo thọ thân chẳng
đồng.
Như có loài sống ở dưới nước, như tôm, cá v.v... Có loài ở trên
không, như chư Thiên... Có loài sống trên đất liền, như loài người và các loài
động vật, thực vật khác. Như thế, Quỷ, Thần cũng là một loại chúng sanh như vô
số chúng sanh khác. Vì vậy mà rãi rác trong các kinh điển của Phật giáo, tiêu
biểu như Kinh Địa Tạng chẳng hạn, trong đó, Phật nêu ra có nhiều loại Quỷ, Thần.
Nhưng nêu ra như thế, để nói lên nghiệp cảm sai biệt của mỗi chúng sanh trong
thế giới lục đạo luân hồi, chớ không phải Phật nêu ra như thế là có ý chấp nhận
Quỷ, Thần có quyền ban phước giáng họa, để rồi Phật khuyên mọi người nên tin
tưởng cúng bái Quỷ, Thần .
Điều nầy là một điều tối kỵ trong Phật giáo.
Kinh Phật còn cho chúng ta biết thêm về thế giới quan, có chúng sanh hữu tình,
có loài chúng sanh vô tình, có loài hữu hình hữu tướng, có loài vô hình vô tướng
vân vân và vân vân. Tất cả đều tùy theo căn thức và nghiệp cảm mà có ra vô số
sai khác. Như thế, thì không có một chúng sanh nào cai quản chúng sanh nào,
ngoại trừ sự hỗ tương sinh thành theo luật nhân duyên nhân quả.
Do đó,
Đức Phật không bao giờ khuyên dạy bất cứ ai cầu xin nơi Quỷ, Thần, vì Quỷ, Thần
vẫn còn là một chúng sanh cũng vẫn đang chịu khổ như bao nhiêu chúng sanh khác,
chưa biết bao giờ thoát khỏi, nếu như Quỷ, Thần đó không biết hồi tâm chuyển ý
lo tu niệm.
Tóm lại, theo giáo lý của Phật giáo, Phật giáo có nói đến các loại Quỷ, Thần,
như là một chúng sanh bị nghiệp cảm thọ báo mang hình hài nghiệp thức trong loài
đó, chớ Phật giáo không chấp nhận quyền năng của bất cứ vị Thần sáng tạo nào, dù
là nhất Thần, hay đa Thần cũng thế.
Hơn thế nữa, Đức Phật chưa bao giờ
khuyên đệ tử của Ngài tin tưởng vào Thần quyền. Và cũng không bao giờ chấp nhận
cho đệ tử của Ngài cúng bái, cầu khẩn van xin điều nầy việc nọ với Quỷ, Thần.
Nếu là đệ tử của Phật, đã quy y theo Phật giáo, thì trong 3 điều quy y có một
điều Phật răn cấm là không được quy y với Thiên, Thần, Quỷ, Vật. Ngay cả như chư
Thiên, người phật tử cũng không được nương tựa. Lý do tại sao? Xin thưa, vì các
vị trời cũng vẫn là một chúng sanh, nói rõ hơn, họ với ta sánh vế thì ngang
nhau, vì ta cùng họ đều là đệ tử của Đức Phật. Tất nhiên là huynh đệ với nhau.
Chẳng qua là họ hơn ta ở chỗ thọ dụng phước báo mà thôi.
Hỏi: Giữa Phật Lịch
và Phật Đản khác nhau như thế nào ?
Đáp: Hai danh từ nầy khác
nhau rất xa. Phật Lịch là nói Phật nhập Niết Bàn. Còn nói Phật Đản là chỉ cho
Phật ra đời. Căn cứ theo lịch sử, thì kể từ khi Phật ra đời cho đến khi Phật
Nhập Diệt là 80 năm, tức ứng thân Phật sống được 80 tuổi. Do đó, nên mới có con
số khác biệt giữa Phật Đản và Phật Lịch.
Nói Phật Đản là người ta tính
thời gian từ lúc Phật ra đời cho đến nay (2007) là 2631 năm. Lý do tại sao có ra
con số 2631 nầy ? Bởi vì Phật ra đời trước Tây Lịch 624 năm (Theo tài liệu Phật
Học Phổ Thông Khóa thứ nhứt, Bài thứ 2 nói về Lược Sử Phật Thích Ca Mâu Ni, do
cố Hòa Thượng Thích Thiện Hoa biên soạn) .
Năm nay tính theo Tây Lịch là
2007 Đem con số 2007 nầy cộng với 624 thành ra là 2631 (2007 + 624 = 2631). Còn
Phật Lịch, thì người ta đem con số 624 (trước Tây Lịch) trừ đi 80 năm Phật tại
thế, thành ra còn lại là 544 năm, rồi đem con số 544 cộng với 2007 thành ra là
2551. (624 - 80 = 544 + 2007 = 2551 ) Như vậy tính theo năm nay là 2007, thì
Phật Lịch là 2551 năm. Còn Phật Đản là 2631 năm.
Hỏi: Cùng là nói lên
ý nghĩa Phật ra đời, tiếng Anh chỉ dùng một từ là Buddha Birthday, trong khi đó
thì tiếng Việt của chúng ta lại dùng nhiều từ ngữ diễn tả quá, nào là đản sanh,
giáng sanh, thị hiện, xuất thế, lâm phàm, giáng trần v.v...Vậy xin hỏi: ý nghĩa
của mỗi từ ngữ nầy như thế nào? Và nó có giống nhau hay là khác
nhau?
Đáp: Qua câu hỏi nầy cho
chúng ta thấy rằng, ngôn từ của tiếng Việt ta rất là phong phú. Cùng một vấn đề,
nhưng lại có rất nhiều từ ngữ để diễn tả. Không phải như tiếng Anh chỉ có một từ
ngữ để diễn tả thôi. Thế thì, ta phải hãnh diện về ngôn từ của ta rất là giàu có
về từ ngữ chớ không phải nghèo nàn.
Những từ ngữ diễn tả trên, về danh
từ tuy có khác, nhưng về ý nghĩa của mỗi từ ngữ thì không có khác mấy.
Danh từ « đản sanh » là nói lên ý nghĩa sự ra đời của Đức Phật nhằm đem
lại cho muôn loài (trong đó loài người là quan trọng nhứt) một niềm vui hân hoan
xán lạn, và đồng thời cũng là để tô điểm cho cõi đời nầy thêm nhiều hương hoa
tươi đẹp.
Còn chữ « giáng sanh » hàm có nghĩa là Đức Phật từ một nơi cao
xa mà xuống một chỗ thấp để sanh ra. Chữ « thị hiện », ý nói rằng, Đức Phật tu
hành đã thành Phật trải qua nhiều đời nhiều kiếp rồi, nay vì muốn hóa độ chúng
sanh ở cõi Ta bà nầy, nên Ngài giả đò hiện ra cái thân hình bằng xương bằng thịt
như bao nhiêu con người trần tục khác, (Nhưng có điều khác là thân Ngài có 32
tướng tốt và 80 vẻ đẹp) để cho Ngài dễ bề cảm hóa chúng sanh mà thôi. Nên trong
kinh thường gọi cái thân Phật thị hiện là ứng thân, tức là một trong 3 thân Phật
vậy.
Danh từ « xuất thế » có nghĩa là ra đời. Chỉ cho Đức Phật vì thương
xót chúng sanh đang trầm luân trong biển ái vô minh nghiệp thức tràn đầy khổ
lụy, nên Ngài xuất hiện ở thế gian nầy để cứu độ họ chóng được giải thoát.
Còn chữ « lâm phàm »: lâm là đến, phàm là chỉ cho cõi đời ngũ trược ác
thế nầy. Nghĩa là ý nói rằng, vì chúng sanh đang lăn lộn trong cõi đời trược ác
nầy, nên Đức Phật thương xót mà đến cõi nầy để độ họ. Chữ « giáng trần » cũng
đồng nghĩa như giáng thế hay giáng sanh.
Tóm lại, những từ ngữ mà chúng
tôi tạm giải thích khái lược qua, chúng ta thấy rằng, mỗi từ ngữ nó đều có mang
một ý nghĩa đặc biệt của nó. Tuy phạm vi ý nghĩa rộng hẹp có khác, nhưng tựu
trung cũng đều nói lên ý nghĩa chỉ cho Đức Phật ra đời để hóa độ chúng sanh.
Hiện nay, danh từ Phật Đản là một danh từ rất được thông dụng phổ cập trên thế
giới, hầu hết mọi người đều hay nói đến.
Hỏi: Sự phát tâm cúng
dường Tam Bảo và cúng dường Trai Tăng giống nhau và khác nhau như thế nào
?
Đáp: Xét chung,
trên căn bản hay động cơ chính yếu của sự phát tâm thì có phần nào giống nhau.
Vì cả hai đều có tấm lòng tốt và cả hai đều muốn gây tạo phước duyên với Tam
Bảo. Như vậy là giống nhau trên căn bản phát tâm lành.
Tuy nhiên, nếu
xét vi tế hơn, thì đôi khi cũng không giống nhau hẳn. Lý do tại sao? Bởi vì sự
phát tâm nầy còn tùy theo tâm địa khởi phát của mỗi người rộng hẹp khác nhau,
tức là cái chánh nhân gây tạo bất đồng, và lẽ đương nhiên khi kết quả cũng bất
đồng. Bất đồng ở điểm nào? Nếu khi phát tâm cúng dường mà tâm ta phát khởi rộng
lớn, vì lợi ích chúng sanh, muốn cho Tam Bảo mãi mãi được trường tồn trên thế
gian, để mọi người biết đến mà tu tạo phước đức, được an vui giải thoát. Phát
tâm như vậy, gọi là phát tâm rộng lớn. Và khi kết quả phước báo cũng rộng lớn.
Ngược lại, nếu khi cúng dường mà ta chỉ mong cầu chư Phật, Bồ tát gia hộ
độ trì cho bản thân mình hoặc cho gia đình mình được bình an. Đồng thời được mua
may bán đắt, nhà cửa giàu sang, con cái thành tài đỗ đạt, mọi sự đều được hanh
thông như ý muốn, người phát tâm cúng dường như vậy, gọi là phát tâm nhỏ hẹp,
cộng thêm có lòng tham muốn quá ích kỷ, chỉ nghĩ riêng cho mình và gia đình mình
thôi.
Do sự phát tâm ích kỷ nhỏ hẹp đó, kết quả cái phước báo cũng rất
là nhỏ hẹp. Đó là điểm khác biệt vi tế ở nơi cái nhân khi phát tâm cúng dường.
Đó là nói giống nhau và khác nhau ở nơi tâm niệm cũng như giống nhau và khác
nhau ở nơi mục đích đạt được.
Còn nếu xét trên hình thức, thì giữa cúng
dường Tam Bảo và cúng dường Trai Tăng rất khác nhau. Khác nhau như thế nào? Xin
thưa, nói Tam Bảo gồm có Phật, Pháp và Tăng.
Cúng dường Phật Bảo là như
thế nào? Về Phật, thì tuy rằng Đức Phật không còn tại thế, nhưng để tưởng nhớ
công ơn lớn lao mà Đức Phật đã giáo hóa chúng sanh, nên người ta tạc tạo hoặc
chạm đúc những hình tượng để tôn thờ. Do đó, nên người Phật tử phát tâm ủng hộ
tịnh tài để thỉnh tượng Phật thờ phụng trong các chùa, hoặc xuất tiền thỉnh
tượng Phật về thờ ở nhà v.v... đều được gọi là cúng dường Phật Bảo.
Cúng
dường Pháp Bảo là như thế nào? Vì muốn cho chánh giáo của Phật mãi được lưu
truyền sâu rộng trên thế gian, nên người phật tử cùng nhau góp tiền lại để in
kinh ấn tống cho mọi người cùng tụng đọc, hiểu đạo mà tu hành, thì đó gọi là
hùng phước cúng dường Pháp Bảo.
Cúng dường Tăng Bảo là sao? Nếu Phật,
Pháp đã có mà không có chư Tăng, Ni những bậc tu hành chơn chánh, để thay Phật
hoằng truyền thuyết giảng giáo pháp của Phật, thì người phật tử tại gia cũng
không thể nào am hiểu được để ứng dụng tu hành.
Thế nên, người phật tử
cần phải tu tạo phương tiện bằng cách Tứ sự cúng dường (y phục, sàng tòa, thực
phẩm và y dược) để cho chư Tăng Ni có thêm chút ít phương tiện tu hành cũng như
trong việc hoằng hóa. Đó gọi là cúng dường Tăng Bảo.
Nói tóm lại, đây
là cúng dường Thế Gian Trụ Trì Tam Bảo. Còn cúng dường Trai Tăng, chỉ trong phạm
vi nhỏ hẹp. Đây là người Phật tử noi theo tấm gương hiếu hạnh của Tôn Giả Mục
Kiền Liên, thiết lễ Trai tăng cúng dường để cầu siêu độ cho mẫu thân của Ngài.
Buổi lễ Trai tăng nầy, được các chùa thực hiện vào ngày rằm tháng 7 âm lịch
hằng năm, sau khi chư Tăng Ni làm lễ Tự Tứ mãn hạ. Từ đó, mới có lễ Trai tăng
truyền thống nầy. Do cớ đó, nên người Phật tử mỗi khi trong thân quyến của họ có
người thân qua đời, (thông thường đến 49 ngày cúng chung thất), thì họ thường
hay thiết lễ Trai tăng ở trong chùa hoặc ở tại nhà (thường là tổ chức Trai tăng
ở chùa nhiều hơn, vì có nhiều tiện lợi) để cầu siêu độ cho người quá cố. Như
vậy, buổi lễ nầy, những phẩm vật mà người phật tử dâng lên cúng dường chỉ riêng
chư Tăng Ni hiện tiền được quyền hưởng dụng. Nói rõ ra, những tài vật nầy là
thuộc quyền sở hữu cá nhân của những vị có mặt trong buổi lễ Trai tăng đó
thôi.
Điều nầy, không có liên hệ gì đến phần cúng dường Tam Bảo như đã
nói ở trên. Phần trên là phần chung, thập phương tăng đều có quyền hưởng dụng.
Còn phần nầy là phần riêng của mỗi người. Mặc dù trong Tam Bảo có cúng dường
tăng, nhưng đây cũng là của chung của Tam Bảo mà chư Tăng Ni không có quyền xử
dụng tài vật đó cho riêng mình, ngoại trừ Phật tử ủng hộ riêng thì được. Đó là
điểm khác biệt giữa cúng dường Tam Bảo và cúng dường Trai Tăng đại khái là như
thế.
Hỏi: Tại Việt Nam,
tất cả tu sĩ Phật giáo không phân biệt nam nữ đều lấy họ Thích. Xin cho biết
truyền thống nầy chỉ có ở Việt Nam hay còn được áp dụng tại một vài quốc gia
khác nữa? Ngoài ra, cũng xin cho biết truyền thống nầy phát xuất từ nguyên do
nào và từ khoảng nào trong lịch sử?
Đáp: Về câu hỏi thứ nhứt, xin được giải đáp qua 2 phương
diện :
Thứ nhứt, xét chung, trên nguyên tắc, thì không riêng gì tu sĩ Phật giáo Việt
Nam, mà tất cả tu sĩ Phật giáo khắp nơi trên thế giới, đều mang chung họ Thích
cả. Vì Đức Phật là họ Thích. Những vị nầy được mệnh danh là con đầu lòng của
chánh pháp; là trưởng nam của lịch sử truyền thừa, là con của đấng Điều Ngự, thì
lẽ đương nhiên là các ngài phải lấy họ Thích rồi. Xét chung trên nguyên tắc là
như thế.
Thứ hai, nếu xét riêng, thì có khác. Vì việc lấy họ Thích, không phải là một
quy luật chung áp dụng cho tất cả. Vấn đề nầy, còn tùy theo đặc tính và sở thích
của mỗi người. Không phải ai cũng đặt cho mình là họ Thích cả, ít ra là về cách
xưng hô cũng như trên những văn kiện giấy tờ. Đối với những tu sĩ Phật giáo Việt
Nam, có rất nhiều vị, kể từ khi xuất gia cho đến khi viên tịch, các Ngài không
bao giờ lấy chữ Thích. Không những thế, có vị còn để ngay tên đời của mình trên
những kinh sách đã trước tác cũng như dịch thuật. Trường hợp như cố Đại Lão Hòa
Thượng Hành Trụ, Ngài thường để là Sa Môn Lê Phước Bình. Còn nhiều vị khác nữa.
Chỉ nêu đơn cử thế thôi. Có nhiều vị chỉ để pháp danh hay pháp hiệu mà thầy tổ
đã đặt cho, hoặc là lấy bút hiệu gì đó v.v... chớ các Ngài không tự xưng mình là
Thích. Đôi khi có người lại thích chơi chữ hay mỉa mai châm biếm, họ nói là
Thích Đô La chẳng hạn...
Đọc sử Phật giáo Việt Nam, chúng ta thấy sử ghi lại các bậc cao tăng thạc đức
thời xưa, hầu hết các Ngài không bao giờ để họ Thích trước pháp danh hay pháp
hiệu của các Ngài. Như Vạn Hạnh, thì để là Vạn Hạnh, còn hai chữ Thiền sư do
người ta tôn xưng Ngài, vì Ngài tu thiền đạt ngộ được lý Thiền, nên người ta
gọi Ngài là Thiền sư. Chỉ có thế thôi.
Riêng về các quốc gia khác, theo chỗ chúng tôi được biết qua một số tài liệu
sách báo, thì chúng tôi không thấy họ để chữ Thích (Sàkya) bao giờ. Ngoại trừ
Phật Giáo Trung Hoa và Đài Loan, hiện nay thì có một số vị lấy họ Thích. Nhưng
phần nhiều chúng tôi thấy họ thường để 2 chữ Pháp sư ở đầu. Như Pháp Sư Tịnh
Không chẳng hạn.
Về câu hỏi thứ hai, nguyên nhân và thời điểm nào lấy họ Thích? Xin thưa: Về
vấn đề nầy, trong quyển Từ Điển Phật Học Hán Việt có nêu rõ như sau: “Đạo Phật
hồi mới truyền sang Trung Quốc, các tăng còn được gọi bằng họ thế tục của mình,
hoặc lấy họ Trúc, hoặc lấy họ của bậc sư phụ, như ngài Chi Độn vốn họ Quan, vì
sư phụ là ngài Chi Khiêm, nên lấy họ là Chi. Ngài Bạch Đạo Du vốn họ Phùng, học
với ngài Bạch thi lê mật đa, nên lấy họ Bạch.
Đến ngài Đạo An, một cao Tăng Trung Hoa đời Đông Tấn (312 - 385) tức thế kỷ
thứ tư Tây Lịch, mới bắt đầu nói: Đức Phật có họ là Thích Ca, nay những người
xuất gia nên theo họ của Phật, tức họ Thích. Về sau khi Kinh A Hàm được đem về,
trong Kinh cũng nói như vậy. Do đó khắp thiên hạ đều theo. Trong quyển Dị Cư Lục
22 có chép: “Sa môn từ thời Ngụy Tấn lấy họ theo của thầy dạy. Ngài Đạo An suy
tôn Đức Thích Ca, bèn lấy chữ Thích làm họ. Sau lại thấy A Hàm nói: Bốn con sông
nhập vào bể, không còn có tên của con sông. Bốn họ Sa môn, đều dòng họ Thích. Từ
đấy trở thành lệ cố định, các Sa môn bắt đầu lấy họ Thích.”
Hỏi: Ý nghĩa Tứ đại
và Thất đại khác nhau như thế nào?
Đáp: Tứ đại và
thất đại đương nhiên là có sự khác biệt. Tứ đại là nói theo kinh điển của hệ
Phật Giáo Nguyên Thủy (Tiểu Thừa) ý nghĩa của nó hạn hẹp. Còn nói thất đại là
nói theo hệ Phật Giáo phát triển (Đại Thừa). Ý nghĩa của nó rộng hơn.
Tứ
đại gồm có: đất, nước, gió, lửa. Bốn yếu tố nầy kết hợp lại chỉ tạo nên một vật
thể mà thôi. Đất là chất cứng, tức ở thể đông đặc. Nước là chất trơn, tức ở thể
lỏng. Gió là chất động, tức ở thể hơi (biến dịch). Lửa là chất nóng, tức ở thể
ấm. Lẽ ra phải thêm vào một đại nữa đó là không đại. Vì bất cứ vật thể nào, nó
cũng cần có những lỗ trống để thở mới sinh tồn được. Như thân người cần phải có
những lỗ trống, thì máu huyết mới lưu thông và hơi thở (phong đại) mới vận hành
điều hòa. Nhờ thế, con người mới sống được. Điều nầy, khoa học đã chứng minh cho
chúng ta thấy rất rõ qua kiến hiển vi.
Nói thất đại ngoài 4 yếu tố: đất,
nước, gió, lửa ra, người ta còn thêm vào 3 đại nữa, đó là không đại, kiến đại và
thức đại. Riêng về kiến đại và thức đại, nghĩa của nó cũng có rộng hẹp khác
nhau. Kiến đại cũng là sự hiểu biết, nhưng ở một trình độ thấp hơn thức đại. Như
các loài thú vật, thuộc loại động vật hạ đẳng, trình độ hiểu biết nhận thức của
chúng so với loài người thì kém hơn nhiều. Do đó, chúng chỉ có kiến đại chớ
không có thức đại, chỉ có loài người mới có đầy đủ cả 7 đại mà thôi.
Hỏi: Vào những ngày
Đại Lễ của Phật giáo như Phật Đản, Vu lan, con thường thấy một vài Phật tử mua
chim hay bồ câu để phóng sanh. Nhưng họ mua không thả liền, mà họ đem vô chùa để
nhốt chờ quý thầy làm lễ rồi mới thả. Có khi thầy bận việc, không làm lễ liền
phải nhốt chúng trong lồng có khi qua cả đêm đến sáng hôm sau, đợi đến lúc thầy
rảnh mới làm lễ thả, hoặc có khi phải chờ đến giờ hành lễ chánh thức (trường hợp
như lễ Phật Đản) mới phóng sanh. Xin hỏi: phóng sanh như thế có đúng với ý nghĩa
phóng sanh hay không? Và người mua vật để phóng sanh như thế có phước đức nhiều
không ?
Đáp: Điều nầy, nếu xét kỹ, ta thấy không đúng với ý nghĩa
phóng sanh cho lắm. Thật ra, đúng nghĩa phóng sanh là sau khi mua con vật phải
thả ngay. Động cơ phóng sanh là gì? Phải chăng tất cả đều do lòng từ bi mà ra.
Vì lòng từ bi, nên thương xót con vật nào đó đang bị đau khổ kêu la cầu cứu.
Chúng ta vì thương chúng không nở nhìn thấy chúng phải chết một cách đau thương,
nên người Phật tử động lòng trắc ẩn từ bi mà bỏ tiền ra để mua chúng. Nhưng sau
khi mua xong, thì tức tốc phải thả chúng ra ngay, để chúng được tự do thoải mái.
Người xưa nói: “Nhứt nhựt tại tù, thiên thu tại ngoại.” Nghĩa là: một
ngày bị nhốt trong lao tù, bằng một ngàn năm sống được tự do ở bên ngoài. Như
thế, thì mới đúng với ý nghĩa phóng sanh. Và như thế, mới thực sự có phước và
mới thực sự là thể hiện đúng với lòng từ bi Phật dạy.
Ngược lại, đằng
nầy không thế. Mua rồi phải đem vô chùa chờ thầy làm lễ mới phóng thích. Gặp lúc
thầy bận việc, không quan tâm tới, thế là những con vật bất hạnh kia phải kêu
la, chen lấn đạp nhau trong lồng, thật là đau khổ. Nếu chúng nói được, thì chúng
sẽ cất cao giọng mà nói to lên rằng: “Xin mọi người hãy thương xót chúng tôi mà
giùm ơn thả chúng tôi ra ngay, chớ đợi tới giờ mới làm lễ rồi khi làm lễ, thầy
lại kéo dài giọng tụng ê a nữa, như thế chắc là chúng tôi phải chết mất đi thôi!
Thà rằng hãy để cho người ta bắt chúng tôi mà họ làm thịt xơi chúng tôi đi, thì
chúng tôi khỏi phải kéo dài sự đau khổ lê thê như thế nầy! Chớ các người ra ơn
tế độ chúng tôi cái kiểu nầy, thì thật là tội nghiệp cho chúng tôi quá!”
Lời kêu than của chúng thật là hữu lý. Sự thật là như thế. Có khi chờ
thầy làm lễ xong, có con thì chết, có con thì què quặt bay đi không nổi... Như
vậy, thì lại càng thêm tội chớ nào có phước đâu! Thử hỏi chúng ta làm lễ để ai
chứng minh? Phật hay Bồ Tát? Hay chư Tôn Đức Tăng Ni? Chắc chắn Phật và Bồ Tát
không thể chứng minh kéo dài sự đau khổ của chúng sanh như thế nầy rồi! Chư Tôn
Đức Tăng Ni ư? Những vị nầy đầy lòng từ bi cũng không thể nào nhẫn tâm nhìn thấy
cảnh tượng đau thương kêu la thảm thiết chúng bị nhốt lâu như thế!
Tóm
lại, cũng một việc làm, mới nhìn thì thấy như là có phước lắm, nhưng nếu không
khéo, thì trở thành mang tội. Thế thì phóng sanh như thế, chẳng những không đúng
ý nghĩa của việc phóng sanh mà nó còn không được phước như ý mình muốn. Vì vậy,
mong rằng người Phật tử khi có hảo tâm muốn mãi vật phóng sanh, thì nên lưu tâm
hơn về việc làm nầy.
Hỏi: Phật Pháp thì có
một, nhưng tại sao lại có ra ba thừa?
Đáp: Lý do có ra ba thừa sai khác là y cứ vào trình độ hiểu
biết rộng hẹp, sâu cạn, cao thấp bất đồng của mỗi chúng sanh. Từ đó, trong Phật
Pháp mới có chia ra sự sai biệt nầy. Tất cả, cũng chỉ vì nhắm thẳng mục đích làm
lợi ích cho hết thảy chúng sanh mà thôi.
Trong Khế Kinh có nêu ra một
thí dụ. Thí như có 3 con thú: thỏ, nai và voi đồng lội qua một con sông. Con thỏ
nhỏ con lại có đôi chân ngắn, nên chỉ bơi lội 2 chân là đà trên mặt nước thôi.
Con nai thì to con hơn và đôi chân lại dài hơn, nên 2 chân lội lưng chừng nước.
Còn con voi thì thân thể to lớn vạm vỡ và có đôi chân bự lại dài hơn, nên đôi
chân của nó lội đạp xuống tới đất.
Con thỏ là dụ cho hàng Thanh văn
thừa. (Tiểu Thừa) Thanh Văn vì tâm hẹp, nên dụ như con thỏ vừa nhỏ con lại vừa
có đôi chân ngắn chỉ bơi lội là đà trên mặt nước. Con nai là dụ cho Duyên giác
thừa. (Trung Thừa) Vì trí huệ của hàng Duyên Giác cao rộng hơn Thanh Văn, nên
dụ như con nai, vì con nai lớn con và có đôi chân dài hơn con thỏ. Đến con voi
là dụ cho Bồ tát thừa (Đại Thừa ). Vì trí huệ nhận thức ở nơi các pháp của hàng
Bồ Tát hơn hẳn hàng Nhị Thừa (Thanh Văn và Duyên Giác) nên dụ như con voi, vì
hình thể của con voi vừa to lớn mập mạp lại có thêm đôi chân bự và dài, nên lội
sâu hơn 2 con kia.
Qua thí dụ nầy chúng ta thấy, con sông thì chỉ có
một, tức Phật Pháp chỉ có một, mà thú thì có ba. Ba con thú là tiêu biểu, nói
lên sự sai biệt của ba thừa. Chính vì sự sai khác đó, nên trong Phật Giáo mới
tạm chia ra có ba thừa. Kỳ thật chỉ có một Thừa, tức Phật Thừa mà thôi, như
trong Kinh Pháp Hoa đã nói rõ.
Hỏi: Có người nói,
những người tu Tịnh Độ niệm Phật cầu vãng sanh về Cực lạc, thì những người đó
thật là ích kỷ, chỉ nghĩ riêng cho mình được lợi lạc, mặc cho những người thân
hay bạn bè nói rộng ra là tất cả mọi người ở cõi Ta bà nầy ai khổ mặc ai, miễn
sao phần mình được sung sướng thì thôi. Xin hỏi: người nói như thế có hợp lý hay
không?
Đáp: Nếu bảo rằng có hợp lý hay không, theo tôi, thì chỉ hợp
lý ở một giai đoạn nào đó thôi, chớ không thể nói là hợp lý hoàn toàn. Nếu khẳng
quyết cho rằng những người niệm Phật cầu sanh Tây phương Cực lạc là hoàn toàn
ích kỷ chỉ nghĩ cho riêng mình. Lời trách nầy, e có hơi quá đáng! Vì sao? Bởi vì
bản nguyện của người niệm Phật cầu sanh Tây phương, họ không phải nguyện về Cực
lạc để rồi thọ hưởng những thú vui bên đó luôn, mà tâm nguyện của họ, chỉ về bên
đó tiếp tục tu học một thời gian, cho đến khi nào hoàn toàn giác ngộ thành Phật,
chừng đó, họ sẽ trở lại cõi Ta bà nầy để hóa độ chúng sanh.
Như vậy, rõ
ràng họ không phải là những kẻ bạc tình bạc nghĩa. Chẳng qua cũng chỉ vì lòng
thương mọi người, mà họ không muốn cùng nhau chết chìm, khi mình chưa biết lội,
mà dám xông pha nhảy xuống nước cứu vớt người. Họ không muốn mạo hiểm phiêu lưu
như thế. Vì vậy, để được an toàn bảo đảm trong việc cứu vớt người, chính họ phải
tìm cách bảo đảm cho mình có một nội lực thật vững chắc trước, rồi sau đó, họ sẽ
trở lại cứu độ mọi loài. Như thế, quả họ là những người biết lo xa, và biết dự
phòng vững chắc. Việc họ làm, không phải tùy hứng hay ngẫu nhiên, mà họ chỉ làm
đúng theo những gì mà Đức Phật Thích Ca chỉ dạy, giới thiệu.
Thế thì,
trong thời gian họ vắng mặt ở cõi nầy, người ta coi họ như là người ích kỷ.
Nhưng kỳ thật, không hẳn là như thế. Thí như những vị xuất gia, khi vào chùa, họ
xa lìa cha mẹ, bà con họ hàng, những người thân thuộc, bạn bè thân thiết. Thời
gian ở chùa, các ngài quyết chí tu học. Chả lẽ trong thời gian ở trong chùa tu
học, thì những vị nầy lại là những kẻ ích kỷ, bạc tình bạc nghĩa hết hay sao?
Mới nhìn qua như là có ích kỷ, nhưng xét sâu hơn, chưa hẳn là như thế. Vì sau
khi ngộ đạo, các ngài vân du hóa đạo làm lợi ích cho chúng sanh.
Như vậy,
khi các ngài không còn có mặt ở ngoài đời, giam mình tu học ở trong chùa, hay
một nơi nào khác, thì người ta cho rằng các ngài là yểm thế hay ích kỷ? Nhưng
đây lại là thời gian mà các ngài chuẩn bị hành trang tư lương cho mình khả dĩ
thật chu đáo chín mùi, để sau nầy các ngài ra hoằng pháp lợi sanh. Thế thì, ta
lại vội trách các ngài ích kỷ được sao? Nếu vội trách như thế, xét ra, thật hơi
quá đáng! Nếu không muốn nói là quá hàm hồ nông cạn.
Lại thêm một thí dụ
nữa. Thí như có một sinh viên ở nước Việt Nam ta, anh ta nghe sự giới thiệu của
một giáo sư đại học rất tài giỏi, ông ấy nói rằng, ở bên Mỹ có một trường đại
học chuyên đào tạo những người có khả năng chuyên ngành kỹ thuật điện tử, đây là
ngành mà anh thấy rất thích hợp cho khả năng anh. Sau khi nghe vị giáo sư đó
giới thiệu, anh ta quyết tâm bằng mọi cách phải qua được bên Mỹ để học. Tâm
nguyện của anh là sau khi anh học xong chương trình của trường đại học đó giảng
dạy, bấy giờ anh sẽ trở về lại Việt Nam để dấn thân phục vụ làm việc, hầu giúp
ích cho đồng bào anh.
Như vậy, việc anh sinh viên qua Mỹ du học, và cưu
mang một tâm nguyện như thế, thử hỏi: anh sinh viên kia có ích kỷ hay không? Chả
lẽ trong thời gian anh vắng mặt ở quê nhà để đi qua nước người du học, thì ta
lại lên án kết tội anh sinh viên đó là người ích kỷ chỉ nghĩ cho riêng mình được
sao? Bạn sẽ nghĩ thế nào về người kết tội anh sinh viên đó như thế?
Cũng
vậy, sở dĩ hôm nay, người ta biết được Pháp môn niệm Phật cầu vãng sanh về thế
giới Cực lạc là do từ kim khẩu của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni giới thiệu. Cũng như
anh sinh viên kia, sở dĩ anh biết được trường đại học bên Mỹ, là nhờ sự giới
thiệu của vị giáo sư đó. Và khi nghe xong, anh sinh viên kia không phải tự nhiên
mà qua được bên Mỹ để học, tất phải hội đủ những điều kiện theo sự đòi hỏi của
trường đại học ở Mỹ. Vì ở đây có rất nhiều thuận duyên tiện lợi cho sự trau dồi
học hỏi của anh ta.
Cũng thế, người muốn vãng sanh về thế giới Cực lạc
của đức Phật A Di Đà cũng phải hội đủ 3 điều kiện: Tín, Nguyện và Hạnh. Và đồng
thời ở cõi đó có nhiều thắng duyên thuận lợi hơn.
Sau khi hội đủ điều
kiện rồi, anh sinh viên kia, khi sang Mỹ du học, anh ta chỉ có một tâm nguyện
duy nhất là sau khi tốt nghiệp mãn khóa, có mảnh bằng tiến sĩ trong tay, anh ta
sẽ trở lại quê nhà để thi thố tài năng để làm lợi ích cho quê hương xứ sở của
mình.
Cũng thế, người niệm Phật sau khi về Cực lạc có đủ mọi thắng duyên
tu học, nỗ lực tu học cho đến khi nào hoàn toàn giác ngộ, bấy giờ họ sẽ trở lại
cõi nầy để hoằng hóa lợi sanh. Một tâm nguyện như thế, thì tại sao ta cho họ là
ích kỷ?
Có người lại nói, họ chưa hề thấy ai từ cõi Cực lạc trở về? Đã
là do nguyện lực độ sanh của Bồ tát, thì làm sao chúng ta biết rõ họ từ đâu đến.
Và sách sử cũng đã chứng minh cho chúng ta thấy, khi nào có ai phát hiện ra các
Ngài là Bồ tát, thì các Ngài sẽ ẩn diệt ngay. Trường hợp như các Ngài Hàn Sơn,
Thập Đắc hay như Hòa Thượng Thiện Đạo, sử nói Ngài là hóa thân của đức Phật A Di
Đà.
Tóm lại, theo tôi, thì những người niệm Phật phát nguyện vãng sanh
về Cực lạc để tiếp tục tu hành (tất nhiên là có sự đảm bảo hơn cõi nầy về mọi
mặt, theo như lời Phật Thích Ca giới thiệu) sau đó, họ sẽ trở lại cõi nầy để
hoằng hóa độ sanh đúng theo bản nguyện của họ. Như thế, xét bề ngoài thì dường
như có ích kỷ, nhưng xét về bên trong, tức tâm nguyện, thì không có gì là ích kỷ
cả. Vì bản nguyện đó, cũng chỉ nhắm vào chúng sanh mà nguyện, tất nhiên là thuận
theo bản hoài của chư Phật, trừ phi, những ai chỉ nguyện cho mình về Cực lạc
không thôi mà không phát đại nguyện hoàn lai Ta bà để độ sanh, người như thế,
thì đáng trách là quá ích kỷ chỉ nghĩ đến sự lợi lạc cho riêng mình, không đoái
hoài thương cảm ai cả. Như thế, thì quả là trái với lòng từ bi Phật dạy. Người
như thế, mới nên đáng trách. Ngược lại, thì ta không nên vội trách.
Hỏi: Ý nghĩa của Vu
Lan Bồn là gì? và tại sao ngày rằm tháng 7 còn gọi là ngày lễ Tự tứ? Vậy ý
nghĩa của hai chữ Tự tứ là gì?
Đáp: Vu lan bồn, phiên âm
từ chữ Phạn là Uilambana (Hành sự). Còn gọi là Ô lam bà noa. Dịch là Đảo huyền,
chỉ nỗi đau khổ cùng cực. Trong quyển Huyền Ứng Âm Nghĩa 13 có giải thích như
sau: “Vu lan bồn, là nói sai. Nói đúng là Ô lam bà noa, dịch là Đảo huyền.
Theo phép nước Tây Trúc vào ngày Tự Tứ của chư tăng, người ta mua sắm
thực phẩm, đặt cổ bàn linh đình, dâng cúng Phật Tăng để cứu cái khổ treo ngược
(đảo huyền) của người đã mất. Xưa nói là một cái chậu đựng thức ăn, đó là nói
sai”. Vu Lan Bồn Kinh Sớ Tông Mật nói: “Vu Lan là từ ngữ của Tây Vực, nghĩa là
Đảo huyền, bồn là âm của Đông Hạ vẫn là đồ dùng cứu chữa. Nếu theo cách nói của
địa phương thì phải nói là cứu đảo huyền bồn.”
Trong quyển Vu Lan Bồn
Tâm Ký quyển thượng của Nguyên Chiếu bác lại: “Theo Ứng Pháp Sư Kinh Âm Nghĩa
thì: Tiếng Phạm Ô lam bà noa dịch là đảo huyền, nay xét Ô Lan tức là Vu Lan, Bà
noa là cái chậu. Thế là 3 chữ đều là tiếng Phạn. Nhưng âm thì có sự xê xích sai
lầm.” Đó là ý nghĩa của 3 chữ Vu lan bồn.
Còn Tự tứ là gì ? Tự tứ là
một thuật ngữ của Phật giáo. Tiếng Phạn là Pravaranà (Bát Thích Bà) cách dịch cũ
là Tự tứ, cách dịch mới là Tùy ý. Buổi lễ nầy được diễn ra vào ngày cuối cùng
của 3 tháng an cư kiết hạ, theo luật tiền an cư là ngày 16 tháng 7, hậu an cư là
ngày 16 tháng 8, ngày đó mọi người tự nêu ra các tội lỗi mà mình đã phạm phải
trước mặt các vị Tỳ kheo khác, và tự sám hối, nên gọi là Tự tứ. Còn gọi là Tùy
ý, vì là tùy theo ý của người khác mà nêu ra các lỗi mình phạm phải, nên gọi là
Tùy ý. ( Từ Điển Phật Học Hán Việt trang 1447 )
Đó là chúng tôi trích
dẫn nguyên văn trong quyển Từ Điển Phật Học Hán Việt để giải thích ý nghĩa của 2
chữ Tự tứ. Ở đây, chúng tôi cũng xin được nói rõ thêm về ý nghĩa của buổi lễ
quan trọng nầy. Đây là một buổi lễ mà chư Tăng Ni sau 3 tháng an cư kiết hạ, ai
có lỗi lầm gì phải tự phát lồ sám hối trước đại chúng. Hoặc đại chúng thấy,
nghe, hay nghi vị nào đó có phạm tội lỗi, thì có thể chỉ bảo cho vị đó sám
hối.
Quả đây là một tinh thần tự giác cao độ của đạo Phật. Thông thường,
ai cũng che đậy những lỗi lầm của mình, ít ai dám phơi bày cái lỗi lầm của mình
cho người khác biết. Bởi thế có câu: “Xấu che, tốt khoe.”
Ngược lại,
đằng nầy chư Tăng Ni không vì tự ái bản ngã cá nhân, mà tự thổ lộ những điều sái
quấy của mình trước mặt mọi người. Bởi do sự thành thật chỉ lỗi cho nhau trong
tinh thần hòa ái, tương kính, nên chư Phật trong mười phương thảy đều hoan hỷ.
Do đó, nên ngày nầy còn gọi là ngày Phật hoan hỷ là như thế.
Hỏi: Việc chư tăng
chú nguyện cho bà Mục Liên Thanh Đề thoát khỏi kiếp ngạ quỷ. Xin hỏi: Việc cầu
nguyện đó ảnh hưởng thế nào đối với người có tội lỗi? Và việc làm nầy có rơi vào
mê tín hay không?
Đáp: Qua câu hỏi trên, để tiện trả lời, chúng tôi xin được
tách ra làm 2 câu hỏi :
1- Việc cầu nguyện đó ảnh hưởng thế nào đối với
người có tội lỗi?
Xin thưa: Rất có ảnh hưởng. Tuy nhiên, việc ảnh hưởng
đó, nó còn tùy thuộc vào nhiều yếu tố. Nếu những yếu tố tốt, thì ảnh hưởng kết
quả tốt. Ngược lại, thì không như thế.
Những yếu tố tốt như thế nào? Như
trường hợp bà Mục Liên Thanh Đề, sở dĩ bà được thoát khỏi cảnh khổ ngạ quỷ, là
vì bà có nhiều yếu tố thắng duyên tốt .
Thứ nhứt, là ngài Mục Kiền Liên
con của bà rất là chí hiếu. Ngài đã hết lòng tha thiết trong việc thiết lễ trai
tăng cúng dường đúng theo lời Phật dạy.
Thứ hai, chư Tăng, những người
chú nguyện cho bà đều là những vị tu hành thanh tịnh suốt thời gian 3 tháng an
cư kiết hạ. Nhờ tâm các Ngài thanh tịnh, nên sức chú nguyện của các Ngài có một
ảnh hưởng rất mạnh đến mục tiêu mà các Ngài nhắm tới. Mục tiêu đó là bà Mục
Liên Thanh Đề.
Điều nầy, nếu nói theo triết học, thì gọi là: “Thần giao
cách cảm”. Tuy vô hình, nhưng nó có một sức mạnh rất mãnh liệt. Người xưa nói:
“Thành tâm sở chí, kim thạch vị khai.” Nghĩa là: Sức thành khẩn tha thiết hướng
đến đâu, có thể chẻ núi phá vàng đến đó. Xin nêu ra đây một câu chuyện để chứng
minh:
Trong quyển Niệm Phật Thập Yếu trang 104, cố Hòa Thượng Thích
Thiền Tâm có thuật câu chuyện như sau: “ Có một vị bên Pháp tuổi trẻ, góa vợ,
buồn lòng đến miền quê du ngoạn để giải khuây. Nhân khi ngụ ở nhà người thợ rèn,
thấy cô gái con gia chủ có sắc đẹp, mới tỏ thật chuyện mình, xin cưới cô nầy làm
vợ, và được chấp thuận. Nhưng lúc chưa làm lễ cưới, bác sĩ đã ăn nằm với cô gái,
rồi bỏ về đô thị. Người thợ rèn thấy con gái mình bụng ngày một lớn, còn chàng
sở khanh kia thì tuyệt tích như cánh chim hồng, nghĩ mình nhà nghèo thế yếu
không thể kiện thưa, tức giận quá mỗi buổi chiều cầm búa đập vào tấm sắt kêu gọi
tên vị bác sĩ đòi đánh bể đầu, để tiết bớt niềm phẩn hận. Nhưng ở đô thành cứ
vào 5 giờ chiều, vị bác sĩ nọ bổng ôm đầu rên la, chữa trị đủ cách vẫn không
khỏi.
Sau người bạn của bác sĩ trong lúc về thăm quê, vào buổi chiều đi
ngang nhà thợ rèn nghe tiếng đập sắt và kêu gọi tên bạn mình trách mắng, mới vào
gạn hỏi. Khi hiểu rõ sự việc, suy gẫm ra biết nguyên nhân căn bệnh của bạn mình.
Ông về khuyên vị bác sĩ phải đến xin lỗi và cưới cô gái con người thợ rèn. Sau
khi hôn lễ thành, bệnh vị bác sĩ mới khỏi.”
Qua đó, chúng ta thấy, tâm
lực có một sức mạnh vô hình như thế.
Thứ ba, là bà Mục Liên Thanh Đề. Bà
ta mới thực sự là yếu tố chính và quan trọng hơn hết. Sự gia trì của Phật cũng
như sức chú nguyện của chư tăng, tất cả đều là những tác động trợ duyên tốt. Và
nhờ sức trợ duyên mạnh mẽ đó, mà đánh động được tâm thức của bà ta. Bà ta đã ăn
năn hối cải, và tha thiết sám hối. Nhờ sự thành tâm cải hối đó, mà bà được siêu
thoát sanh lên cõi trời Thiên Hoa Quang.
Kinh nói: “Tội tùng tâm khởi,
tùng tâm sám. Tâm nhược diệt thời, tội diệc vong. Tội vong, tâm diệt lưỡng câu
không, thị tắc danh vi chơn sám hối”. Nghĩa là: Tội lỗi từ tâm (vọng) khởi, cũng
từ tâm mà sám. Khi tâm lặng rồi, thì tội cũng tiêu. Tội tiêu, tâm lặng cả hai
đều không còn nữa, đó mới thật là chơn thật sám hối.
2- Việc làm nầy có
rơi vào mê tín không? Xin thưa: Việc làm nầy, chẳng những không phải là mê tín
mà lại còn rất phù hợp với tinh thần giác ngộ của Đạo Phật. Tức là tinh thần tự
giác. Lý do tại sao ? Trước hết, xin dẫn ra đây một vài mẩu chuyện ngắn, do Hòa
Thượng Thích Thanh Từ thuật kể trong quyển Bước Đầu Học Phật, để chứng minh.
Hòa Thượng nói: Mặc dù đây là những mẩu chuyện có tánh cách ngụ ngôn,
nhưng để chúng ta thấy cái tinh thần tự giác của Đạo Phật. Đức Phật có kể lại
tiền thân của Ngài: “Thuở nọ Ngài là đứa con bất hiếu. Khi Ngài chết rồi vào
địa ngục. Ngay trong ngục tối, Ngài thấy ở đàng xa một đóm lửa sáng rực đi đến
dần dần tới Ngài. Tới gần, Ngài nhìn rõ ra là người đang bị một vòng lửa cháy
rực trên đầu. Người đó rên la thảm thiết. Khi tới gần, Ngài hỏi: Anh ơi, anh làm
tội gì mà chịu khổ lắm vậy? Chàng đó nói: Không giấu gì ông, thuở xưa tôi ở nhân
gian, vì bất hiếu với cha mẹ, nên giờ đây tôi mới khổ như thế nầy.
Ngài
hỏi: tới bao giờ anh mới hết tội đó ?
Chàng kia đáp: Chừng nào ở nhân gian
có người nào bất hiếu như tôi, đến thế cho tôi, thì tôi mới hết.
Vừa nói
thì vòng lửa bên đầu anh kia chụp qua đầu của Ngài. Ngài bị đốt cháy đỏ rực, đau
khổ quá Ngài rên la thảm thiết. Khi tỉnh lại Ngài hỏi: “ Đầu tôi bị vòng lửa đốt
cháy như thế nầy, thưa anh chừng nào mới hết, mới khỏi cái khổ nầy? Anh kia nói:
Chừng nào có người ở trên nhân gian bất hiếu như ông, xuống thế cho ông thì ông
mới hết”.
Khi đó Ngài liền nhớ cái khổ bị đốt như thế nầy đau đớn vô
ngần, nếu có người chịu khổ như mình thì tội nghiệp họ quá, chi bằng để một mình
mình chịu khổ thôi. Cho nên lúc đó Ngài liền phát nguyện: “Nguyện tất cả người
trên thế gian, từ đây về sau đừng có ai bất hiếu như tôi, để một mình tôi chịu
cái khổ nầy suốt đời suốt kiếp”. Ngài vừa nguyện xong, bất thần vòng lửa bay đâu
mất. Ngài thấy Ngài sanh lại ở chỗ khác tốt đẹp, không còn vòng lửa
nữa.
Qua câu chuyện đó tuy có tánh cách ngụ ngôn, nhưng cho chúng ta thấy
rõ một khi phát tâm từ bi rộng lớn, phát tâm đạo đức, thì bao nhiêu cái khổ cái
xấu tan đi.
Thêm một câu chuyện nữa. Phật kể lại: “Một thuở nọ Ngài là
một thợ săn hung ác tàn bạo. Sau khi chết đọa vào địa ngục. Khi đó quỷ sứ bắt
Ngài kéo một chiếc xe cồng kềnh, phía sau có người cầm roi đánh. Ngài kéo nặng
nề quá. Kéo qua chỗ tra tấn người Ngài thấy những người khác bị đánh đập hành hạ
đau khổ rên siết quá đổi. Ngài động lòng thương nguyện rằng: “Tôi xin thế tất cả
cái đau khổ của những người ở trong đây! Tất cả cái khổ của những người đang
chịu, xin để cho mình tôi chịu”. Ngài vừa phát nguyện như vậy thì tự thấy Ngài
không còn ở địa ngục nữa.
Thuật qua 2 câu chuyện trên, Hòa Thượng kết
luận: “Qua 2 câu chuyện trên đó, chúng ta thấy bà Thanh Đề, sở dĩ ra khỏi vòng
ngạ quỷ không phải chư Tăng có tài xuống đó dẫn bà lên. Không phải có một ông
Diêm Vương hay ông chúa ngục nào mở thả bà, ân xá cho bà. Cũng không phải ông
Phật trên đài sen xuống cứu bà, mà chính vì tinh thần sáng suốt và ý chí mạnh mẽ
cầu tiến của chư Tăng đồng chung một tâm niệm hướng về bà, mong bà cải đổi tâm
niệm xấu xa. Do sự giao cảm đó mà bà tỉnh giác, chính bà tỉnh giác biết được tội
lỗi của bà, nên bà hối hận chừa bỏ. Do đó, bà thoát khỏi cái khổ ngạ quỷ. Thoát
khỏi là do tâm hối cải tỉnh giác chứ không phải do sức bên ngoài bắt mình hay
thả mình. Đó là sự thật do tinh thần tỉnh giác của con người mà ra. Chỗ đó đối
với quý vị hơi lạ, nhưng sự thật là thế”.
Cũng theo tinh thần tự giác
đó, chúng tôi xin được nêu ra một thí dụ cụ thể và thực tế hơn. Thí dụ: Ông A bị
ghiền á phiện rất nặng, (dụ như bà Thanh Đề vì tạo nghiệp ác phải đọa vào ngạ
quỷ) con ông là anh B rất hiền từ chí hiếu và kính trọng thương ông (dụ như Ngài
Mục Kiền Liên). Vì quá thương xót tình cảnh nghiện ngập của người cha, nên anh A
tìm đủ mọi phương cách để khuyên cha. Một hôm, anh ta trông thấy người cha lên
cơn ghiền dữ dội, tứ chi rả rời, thân thể gần như hết cựa quậy, trong khi đó,
thuốc lại không có, anh ta chạy tìm được chút ít đem về cho cha. Người cha hút
vào, sau đó tỉnh lại. Chứng kiến cảnh đau thương đó (dụ như Ngài Mục Kiền Liên
dùng tuệ nhãn xem thấy người mẹ đang bị cơn đói khát hoành hành đau khổ ngút
ngàn) anh ta quyết định tìm cách cứu cha thoát khỏi bệnh ghiền.
Bấy giờ,
anh ta nghĩ đến vị Thầy của anh ta, là một bậc tu hành giới luật nghiêm minh,
đạo cao đức trọng (dụ như Đức Phật). Anh ta đến quỳ bạch xin thầy chỉ dạy cách
nào để cứu thoát người cha ra khỏi bệnh ghiền. (dụ như Ngài Mục Liên bạch Phật
để Phật chỉ dạy cách cứu mẹ Ngài). Vị thầy đó bảo anh ta, nếu con muốn cứu thoát
cha con bỏ hút á phiện, thì con nên vì cha mà hết lòng mua sắm những thứ mà cha
con thường ưa thích nhất, đồng thời con nên cung thỉnh quý thầy khác mà hằng
ngày cha con kính trọng, cũng như một số bạn bè thân thuộc nhứt của cha con, rồi
chọn ngày mời mọi người đồng đến hiệp lực cùng con để cùng nhau khuyên cha con
cai nghiện. (dụ như Ngài Mục Liên sắm sanh lễ vật và cung thỉnh chư tăng chú
nguyện).
Anh A thực hiện đúng theo những gì thầy dạy. Hôm đó là một ngày
rất đẹp, khí trời ấm áp (dụ như ngày rằm tháng 7) anh A trịnh trọng mời cha đến
ngồi vào bàn ghế sang trọng và trước những vật dụng quý giá mà người cha thường
mong ước. Sau khi người cha ngồi vào ghế, bấy giờ , anh A và những người thân
thuộc trong gia đình đến quỳ trước mặt người cha, đồng khẩn khoản tha thiết lên
tiếng khuyên cha nên vì bản thân, vì con cái và vì bạn bè thân thuộc mà nên
cương quyết cai nghiện ma túy cho bằng được. Thêm vào đó, quý thầy có mặt cũng
như toàn thể bạn bè cũng đồng lòng hết lời chí thiết khuyên bảo.
Trước
tình cảnh đó, người cha quá xúc động đến rơi lệ, nghẹn ngào và rồi ông ta dõng
dạt tuyên bố trước mặt mọi người rằng: “Kể từ ngày hôm nay, tôi cương quyết sẽ
cai nghiện. Không phải nói suông bằng lời cho mọi người vui, mà tôi nhứt quyết
thực hiện bỏ hút cho bằng được. Vì tôi đã sáng mắt nhận ra sự tai hại khốc liệt
của thứ ma túy nầy rồi”! Nói xong, mọi người đều vui lên như ngày mở hội. Nhứt
là người con trai chí hiếu của ông vui mừng không kể xiết. Và từ đó trở đi,
người ta thấy ông ta đã bỏ hẳn và thân thể của ông được mạnh khỏe trở lại như
xưa. Thế là ông đã tự cởi trói được cái khổ mà từ lâu nay nghiệp ghiền ma túy nó
đã treo ngược xiết cổ ông.
Qua thí dụ đó cho chúng ta thấy rằng, sở dĩ
người cha bỏ được á phiện, là chính do ông ta cương quyết cải hối chừa bỏ, còn
mọi người chỉ là trợ duyên tốt giúp cho ông ta tăng thêm phần ý chí nghị lực mà
thôi. Còn chánh nhân chính là ông ta. Chính nhờ lòng chí thành tha thiết thương
cha của anh A, tức con trai của ông, là trợ lực chính giúp cho ông ta từ bỏ
được. Lời khuyên của mọi người (Dụ như sự chú nguyện của chư tăng) đã đánh động
được sự tỉnh giác của ông. Như thế, sự cai nghiện của ông có kết quả tốt là do
ông tự ý thức và tự tỉnh giác lấy. (Dụ như bà Thanh Đề được thoát hóa là do
chính bà tự cải hối ăn năn tâm địa độc ác của bà). Điều nầy, tuyệt nhiên không
do ai cầu nguyện mà được cả. Như vậy, rõ ràng nào có phải là mê tín đâu!
Hỏi: Danh xưng Quán
Thế Âm Bồ Tát và Quán Tự Tại Bồ Tát là một vị Bồ Tát hay hai vị Bồ Tát khác nhau
?
Đáp: Chỉ là một
vị Bồ Tát Quán Thế Âm chớ không phải hai. Sở dĩ có tên gọi khác nhau như thế, là
vì đứng trên hai phương diện mà nói. Gọi Quán Thế Âm là đứng về mặt tu nhân. Vì
Bồ Tát Quán Thế Âm khi còn ở địa vị tu nhân, thì Ngài dùng nhĩ căn để tu, gọi là
: “Phản văn văn tự tánh”, có nghĩa là Ngài nghe lại tánh nghe của chính mình.
Thông thường, chúng ta khi nghe tiếng là chạy theo tiếng, phân biệt
tiếng hay tiếng dở v.v…Ít có ai nghe lại tánh nghe của mình. Tiếng thì lúc có
lúc không, còn tánh nghe thì thường hằng không bao giờ vắng mặt với mình. Nhưng
khổ nổi là tất cả chúng ta đều nhận ở nơi tiếng mà quên mất tánh nghe thường
hằng. Do đó, trong Kinh Lăng Nghiêm Phật quở là: “Quên mình theo vật.”
Ngược lại, Bồ Tát Quán Thế Âm nhờ ứng dụng tu đúng phương pháp Phật dạy:
« Phản văn văn tự tánh » mà Ngài chứng được Nhĩ căn viên thông, hoàn toàn làm
chủ chính mình không còn lệ thuộc ở nơi thinh trần... tới lui tự tại vô ngại,
bấy giờ gọi Ngài là Quán Tự Tại. Như vậy, danh xưng Quán Tự Tại là đứng về
phương diện quả vị mà nói.
Hỏi: Về sự truyền
thừa Tổ vị, bên Thiền tông thì ai cũng biết, nghĩa là có sự truyền thừa hẳn hoi.
Ngược lại, bên Tịnh Độ tông, thì đâu có sự truyền thừa như thế. Thế thì tại sao
gọi các Ngài là Tổ?
Đáp: Đúng vậy.
Bên Tịnh độ không có sự Tổ Tổ tương truyền như bên Thiền tông, nhưng các Ngài sở
dĩ được tôn xưng là Tổ, bởi có nhiều lý do. Tiêu biểu như bốn lý do sau đây mà
chúng tôi thấy trong phần Dẫn Nhập nói về Liên Tông Thập Tam Tổ của cố Hòa
Thượng Thích Thiền Tâm có nêu ra như sau: “ Sở dĩ chư Tổ Liên Tông được tôn xưng
các Ngài là Tổ, bởi do các vị Tăng Tục tu môn niệm Phật đời sau họp lại chọn lựa
ra những vị siêu xuất mà suy tôn lên.
Sự siêu xuất đó được biểu lộ qua
bốn quan điểm chính yếu sau đây :
1- Về phần kiến thức :
- Phải là
các bậc thông hiểu thâm sâu cả Tông lẫn Giáo.
- Giải ngộ Phật Pháp đến mức
Thượng Thừa.
2- Về Phần Đạo Hạnh :
- Phải giữ giới phẩm tinh nghiêm,
hoàn toàn thanh tịnh.
- Tu hành tinh tấn.
- Lâm chung hiện rõ thoại tướng
vãng sanh.
3- Về Phần Hoằng Hóa :
- Phải có công lao lớn trong việc
tuyên dương pháp môn Tịnh độ.
- Hộ trì chánh pháp không tiếc thân mạng.
-
Khuyến dắt, dẫn đạo đến ngàn muôn người niệm Phật.
4- Về Phần Trước Tác
Phiên Dịch :
- Phải có trước tác (biên soạn) tối thiểu từ ba bộ sách khuyến
dạy hoặc hoằng tuyên Tịnh độ trở lên.
- Phải có khả năng phiên dịch và chú sớ
Kinh điển đến mức Thượng Thừa.
Bốn điều kiện nầy phải hoàn toàn đầy đủ
hết mới được suy tôn lên hàng Tổ sư Tịnh độ.
Hỏi: Giữa Chánh niệm
và Vô tâm khác nhau như thế nào?
Đáp: Giữa Chánh niệm và Vô
tâm khác nhau ở điểm căn bản là: Chánh niệm là một trong Bát chánh đạo, nó thuộc
về hệ giáo lý Phật Giáo Nguyên thủy. Chánh niệm có nghĩa là ghi nhớ những điều
hay, lẽ phải, những điều lợi lạc cho mình cho người, những đạo lý chân chính quý
trọng cao siêu. Nói rõ ra chữ chánh niệm nầy ta có thể hiểu là làm việc gì ta
nhớ đến việc đó. Tất nhiên, là ta phải chăm chú vào việc ta làm, không để tâm
nhớ nghĩ đến chuyện khác.
Còn Vô tâm là thuộc về Thiền tông. Thiền tông
nói Vô tâm, không có nghĩa là không có tâm gì cả, như cây đá, mà Vô tâm ở đây có
nghĩa là không có tâm chấp trước vào các sự vật. Nói cách khác là không dấy khởi
vọng niệm phân biệt ở nơi tiền trần. Tâm thể phải luôn luôn vắng
lặng.
Ngược lại, chánh niệm còn có dấy tâm khởi nghĩ vào những động tác
hay việc làm. Vì thế, Chánh niệm và Vô tâm không thể giống nhau. Vô tâm chỉ
tương đồng với Chánh định. Vì Chánh niệm chưa phải là chặng cuối cùng, mà Chánh
định mới là chặng cuối cùng của Bát chánh đạo.
Hỏi: Tại sao trước
ngực của tượng Phật Thích Ca có hình chữ Vạn? và ý nghĩa của chữ vạn như thế
nào? Và không hiểu lý do tại sao hình chữ Vạn có khi có chiều xoay bên phải, có
khi có chiều xoay bên trái?
Đáp: Chữ vạn là
một trong 32 tướng tốt của Đức Phật. Đây là biểu thị cái công đức của Phật. Sở
dĩ nó ứng hiện ở nơi ngực của Phật là để nói lên cái ý nghĩa giác ngộ vẹn toàn
của Phật. Ở chính giữa ngực là tượng trưng cho lý Trung Đạo, không kẹt hai bên,
vượt ngoài đối đãi.
Về ý nghĩa của nó, theo Từ Điển Phật Học Huệ Quang
giải thích, thì nó có nghĩa là cát tường hải vân hay cát tường hỷ toàn. Còn về
chiều xoay bên phải, bên trái không đồng nhứt, thì cũng theo Từ Điển Phật Học
Huệ Quang giải thích như sau:
“Hình chữ Vạn, (xin vẽ chữ vạn có chiều
trên xoay về bên trái vào đây) vốn là dấu hiệu biểu thị sự tốt lành ở Ấn Độ thời
xưa. Ngoài Ấn Độ thì Ba Tư, Hy Lạp đều có phù hiệu nầy, thông thường được xem là
tượng trưng cho mặt trời, ánh chớp, lửa, nước chảy.
Ở Ấn Độ thời xưa,
Phật giáo, Bà La Môn giáo, Kỳ na giáo, đều sử dụng chữ nầy. Đầu tiên, người Ấn
Độ cho rằng phù hiệu nầy là sợi lông xoắn ở ngực của Phạm thiên, Tỳ thấp nô
(Phạn: Visnu), cát lật sắt noa (Phạn: Krsna) và thông thường coi đây là dấu hiệu
của sự tốt lành, thanh tịnh, tròn đầy. Trong Phật giáo, chữ Vạn (chiều trên
xoay về bên trái ) là tướng tốt lành ở trước ngực của Phật và hàng Bồ tát Thập
Địa, về sau dần dần trở thành dấu hiệu đại biểu cho Phật giáo.
Xưa nay
có nhiều thuyết nói về chữ vạn. Về Hán dịch chữ vạn, Cưu ma la thập và Huyền
Trang dịch là chữ « Đức », Ngài Bồ đề lưu chi thì dịch là chữ Vạn, biểu thị ý
nghĩa công đức tràn đầy. Còn trong Tống Cao Tăng Truyện 3 thì cho rằng nếu chữ
Vạn (chiều trên xoay về bên trái) mà dịch là vạn thì chẳng phải dịch ý mà là
dịch âm. Nhưng âm của chữ Srivatsalaksana ban đầu không được đưa vào Kinh
truyện, đến năm 639 thời Võ Tắc Thiên mới đặt ra chữ nầy, đọc là vạn và cho rằng
chữ nầy có ý nghĩa là nơi nhóm hợp của muôn điều tốt lành. Nhưng chữ Vạn (chiều
trên bên trái) vốn là một ký hiệu chứ chẳng phải là một chữ. Sở dĩ xưa nay đọc
liền là vạn tự một mặt là do tập quán, chủ yếu nhất là do lầm lẫn khi dịch từ
tiếng Phạn sang Hán. Vì chữ Phạn Laksana, dịch âm là Lạc sát nẳng, nghĩa là
tướng; mặt khác chữ Phạn aksara dịch âm là Ác sát la, nghĩa là Tự. Có lẽ 2 âm
Laksana và aksara gần giống nhau cho nên ý nghĩa của chúng bị lẫn lộn. Nói theo
đây thì chữ Vạn (chiều trên bên trái) tự nên đọc là tướng, (vạn tướng) mới phù
hợp với nghĩa gốc của chữ Phạn.
Từ xưa, chữ Vạn đã có 2 trường hợp xoay
về bên tả và xoay về bên hữu khác nhau. Đối với Ấn Độ giáo, phần nhiều dùng chữ
vạn (chiều xoay về bên trái) để biểu thị cho nam tánh thần và chữ vạn (có chiều
xoay về bên phải) để biểu thị cho nữ tánh thần. Đối với Phật giáo, có ngôi tháp
cổ hiện còn ở vườn Lộc dã, chữ trên tháp toàn là chữ Vạn, (có chiều xoay về phía
phải) ngôi tháp nầy là vật kiến trúc thời vua A Dục, được xây dựng để kỷ niệm
nơi ngày xưa Đức Phật đã nhập định.
Tại Tây Tạng, tín đồ Lạt Ma Giáo
thường dùng chữ Vạn (có chiều xoay về phía bên trái) tín đồ Bổng giáo thì dùng
chữ Vạn (cũng xoay về phía trái) . Tại Trung Quốc, qua nhiều đời đều dùng cả 2
cách. Huệ Lâm Âm Nghĩa và Cao Ly Đại Tạng Kinh đều chủ trương chữ Vạn (chiều
xoay về phía trái) , Nhật Bản Đại Tạng Kinh cũng mô phỏng theo và sử dụng chữ
Vạn (chiều xoay về phía phải) , nhưng 3 bản Tạng Kinh đời Tống, Nguyên, Minh,
đều dùng chữ Vạn (chiều xoay về phía phải), sự phân chia chữ xoay về bên tả và
bên hữu chủ yếu là do nơi lập trường khác nhau.
Trong Kinh có nhiều chỗ
nói “xoay về bên hữu”, sợi lông trắng giữa 2 đầu chân mày cũng uyển chuyển xoay
về bên hữu, lại như khi lễ kính Phật, Bồ tát cũng phải đi nhiểu về bên hữu, cho
nên từ ngữ “xoay về bên hữu” đã thành luận thuyết nhất định, nhưng rốt cuộc thì
chữ Vạn là xoay về bên phải hay là xoay về bên trái vẫn còn là đầu mối gây ra sự
tranh luận. Nếu đặt chữ Vạn ở phía trước chúng ta, nhìn chữ Vạn từ chỗ đứng của
chúng ta thì xoay về bên hữu sẽ thành chữ Vạn (chiều xoay về bên hữu) ; nhưng
nếu nói theo bản thân của chữ thì chữ Vạn (chiều xoay về bên phải) là phù hợp
với phương hướng xoay về bên hữu.
Hỏi: Xin cho biết 12
loại chúng sinh hay cô hồn gồm có những loại nào ?
Đáp: Mười hai loại cô hồn gồm có
:
- Lụy triều đế chúa (các vua chết
vì phản loạn, tai nạn đổi đời)
- Quan tướng vương triều và Oai
tướng phản thần.
- Bá quận danh thần.
- Bạch ốc thư sinh.
- Xuất trần thượng sĩ (tức là hàng
tu sĩ chỉ nói suông lời Phật dạy, không thực hành pháp và còn bị vướng mắc một
cái gì đó ).
- Huyền môn đạo sĩ.
- Thương gia lữ khách và kẻ buôn
tảo bán tần.
- Chiến sĩ trận vong.
- Sản phụ bất hạnh (lúc thai sản
mất cả mẹ lẫn con).
- Khuyết tật thiếu tu.
- Cung phi mỹ nữ và hạng buôn
hương bán phấn.
- Tù nhân tử tội.
Ngoài ra, còn phải kể đến kẻ chìm sông lạc suối, kẻ nằm cầu gối đất, kẻ cơ
bần khất cái và kẻ gieo giếng thắt dây...” (Theo quyển sách “ Cốt Tủy Giáo Lý
Phật, Bốn tiến trình đi tới Hạ Thủ Công Phu” của tác giả Tâm Tịnh, trong phần
Thay Lời Tựa Viết Cho Một Người Khách Đường Xa )
Hỏi: Ở nhà, chúng con
thường tụng kinh vào những buổi tối, nhưng con không biết đánh chuông mõ, vậy
chúng con chỉ tụng niệm không cần đến chuông mõ có được không? Và tụng như thế
nào mới được lợi ích?
Đáp: Việc tụng niệm, mục đích là để hiểu nghĩa lý trong kinh, xem Phật
dạy những gì, rồi từ đó chúng ta áp dụng vào đời sống hằng ngày. Như thế mới có
lợi ích. Vì vậy, khi tụng đọc, chúng ta nên tụng đọc chậm rãi, không nhứt thiết
là phải có chuông mõ. Sở dĩ có chuông mõ là vì có nhiều người tụng đọc. Công
dụng của mõ là để giữ trường canh để mọi người tụng đọc, cho nó có nhịp nhàng
hòa âm với nhau, không có kẻ tụng trước, người tụng sau. Nên việc đánh mõ cũng
khá quan trọng.
Người đánh mõ cần phải học cách đánh sao cho nó giữ
trường canh đều đặn. Bởi thế, trong Thiền môn gọi người đánh mõ là Duyệt chúng.
Duyệt là vui vẻ, chúng là nhiều người, nghĩa là làm cho mọi người trong thời
khóa lễ tụng niệm, tất cả đều được an vui. Như thế, thì người đánh mõ mới có
phước. Bằng ngược lại, không biết cách đánh, trường canh nhịp điệu không đều,
khi thì nhanh quá, lúc lại chậm quá, làm cho mọi người tụng đọc không hài lòng,
nổi phiền muộn. Như thế, thì người đánh mõ càng thêm mang tội.
Còn người
giữ bên chuông để thỉnh chuông, gọi là Duy Na. Duy na có nghĩa là người điều
khiển buổi lễ. Thường ở chùa, vì có nhiều người tụng niệm, nên cần phải có
chuông mõ.
Ngược lại, ở nhà, nếu Phật tử chỉ tụng niệm một mình, thì
không cần phải đánh mõ chuông. Nếu như trong nhà đã có mõ chuông, thì khi tụng
niệm muốn đánh cũng được không có sao. Tuy nhiên, tốt hơn là không cần sử dụng
đến những khí cụ nầy. Trường hợp không có thì thôi. Khi tụng niệm, tùy theo sức
khỏe và thói quen, tụng lớn tiếng hay nhỏ tiếng hoặc tụng niệm thầm đều được cả.
Xin nhắc lại, mục đích của sự tụng niệm cốt để hiểu rõ nghĩa lý trong
kinh qua những lời Phật dạy, để từ đó, chúng ta đem ra ứng dụng vào đời sống,
như vậy mới có lợi ích thiết thực. Nếu như, khi tụng mà không hiểu rõ nghĩa lý
Phật dạy, thì Phật tử nên đến chùa cầu chư Tăng, Ni chỉ dạy cho.
Hỏi: Con ăn chay một
năm 4 tháng, một tháng con ăn 10 ngày, nhưng những ngày ăn chay, con phải nấu
cơm cho gia đình ăn. Cho nên khi nấu ăn, con vẫn nêm nếm bình thường, vì sợ gia
đình ăn không ngon, rồi dư thức ăn bỏ thì tội, nên con làm như vậy có được hay
không?
Đáp: Người Phật
tử phát nguyện ăn chay là một điều tốt. Vì ăn chay, mục đích là để nuôi dưỡng
lòng từ bi, tránh bớt việc giết hại sinh vật. Tuy nhiên, vì còn sống chung trong
gia đình, lại là người nội trợ lo việc nấu nướng cho gia đình, nên khi nấu cần
phải nêm nếm thức ăn. Thật ra, việc nêm nếm không có gì là tội lỗi cả. Vì xưa
kia, Đức Lục Tổ Huệ Năng khi còn trong thời gian lánh nạn, sống chung với những
người thợ săn, nên mỗi bữa ăn, Ngài hái rau bỏ luộc chung trong nồi thịt của họ,
rồi Ngài vớt lấy rau mà ăn. Ngài ở ngôi vị Tổ, vì hoàn cảnh bắt buộc phải ăn như
thế.
Nay Phật tử cũng vì hoàn cảnh gia đình, nên không thể vì mình mà để
những người thân: chồng con trong gia đình phải mất vui. Theo chúng tôi, thì
việc nêm nếm đó không có gì tội lỗi cả. Điều quan trọng là ở nơi tâm ý của mình.
Nếu trong khi nếm thử như thế, mà mình khởi tâm tham muốn thèm thuồng, thì điều
đó là có lỗi. Có lỗi là tự mình dối với lòng mình, chớ không có lỗi với ai. Còn
nếu, trong khi nêm nếm mà không có tác ý thèm muốn, thì không sao. Vậy, Phật tử
nên tự hỏi lại lòng mình có như thế không? Nếu có, thì tốt hơn hết là hãy để cho
những người ăn mặn chính họ tự nêm nếm lấy.
Hỏi: Kiết thất, đả
thất và kết kỳ niệm Phật ý nghĩa của chúng giống nhau hay khác nhau?
Đáp: Kiết thất,
đả thất và kết kỳ niệm Phật ý nghĩa không khác nhau. Cả ba danh từ nầy, đều có
một ý nghĩa chung là hành giả tránh bớt duyên trần để yên tu. Kiết thất là ở
trong ngôi nhà nhỏ hay một gian phòng, dứt hết duyên ngoài, chỉ chuyên tu (tùy
theo pháp môn mà hành giả đã chọn) như niệm Phật trong khoảng bảy ngày. Nhưng
tại sao phải bảy ngày, không sáu ngày hoặc tám ngày? Kinh dạy: “Nếu có thiện nam
tử thiện nữ nhơn nào, nghe nói đến Phật A Di Đà, giữ niệm danh hiệu, hoặc một
ngày, hoặc hai ngày, hoặc ba ngày, hoặc bốn ngày, hoặc năm ngày, hoặc sáu ngày,
hoặc bảy ngày một lòng không loạn”. Trong Kinh không nói chỉ sáu ngày, hay quá
đến tám ngày, cho nên người tu Tịnh độ xưa nay căn cứ theo kinh quy định thời
gian để kết kỳ niệm Phật trong bảy ngày. Từ đó, hành giả có thể tùy ý tăng thời
gian thêm hoặc 21 ngày hay 49 ngày v.v… Mục đích là để hành giả đạt được Chánh
định hay Nhứt tâm bất loạn mà thôi.
Còn nói Đả thất, chữ đả có nghĩa là
đánh. Nói đủ là “đả thành nhứt phiến”, nghĩa là đánh cho thành một khối tịnh
niệm. Đả thất niệm Phật có khi nhiều người đồng tu, hoặc chỉ một người cho dễ
được thanh tịnh. Như vậy, ba danh từ tuy có khác, nhưng, tựu trung ý nghĩa cũng
giống nhau.
Hỏi: Trong Kinh Di Đà
có nói tướng lưỡi của Phật rộng dài che khắp cả tam thiên đại thiên thế giới.
Xin hỏi: hiện tượng nầy như thế nào? Có đúng như vậy không?
Đáp: Hiện tượng
đó, chỉ là ý nghĩa tiêu biểu tượng trưng thôi. Chớ không phải là có thật như
vậy. Ý nói: Sở dĩ Phật được tướng lưỡi rộng dài như thế, do vì trải qua vô số
kiếp, Phật chưa từng nói dối, nên mới được như vậy. Ngược lại, phàm phu chúng ta
vì trải qua nhiều đời nói dối, nói thêu dệt, nói lời trau chuốt để gạt gẫm thiên
hạ, mưu đồ trục lợi cho mình, nên kết quả, tướng lưỡi của chúng ta hiện nay dài
không quá 3 tấc.
Trong Kinh nói: người nào ba đời không nói dối, thì
lưỡi le ra đụng tới chót mũi. Kinh diễn tả nêu ra như thế, nhằm mục đích khuyên
chúng ta không nên nói dối, mà phải nói lời chân thật. Lời nói chân thật, kết
quả nói ra ai cũng tin và nghe theo. Nếu như, chúng ta y theo kinh mà giải
nghĩa, tướng lưỡi của Phật trùm khắp như vậy, thì làm sao Phật nói chuyện thuyết
giảng. Cho nên nói: “Y kinh giải nghĩa tam thế Phật oan, ly kinh nhứt tự, tức
đồng ma thuyết”. Qua lời nói nầy, chúng ta cần phải cẩn trọng trong khi giảng
giải kinh điển Phật giáo.
Hỏi: Trong kinh diễn
tả, khi Đức Phật thuyết pháp có các chư thiên đến tung hoa cúng dường. Xin hỏi:
chư thiên từ cõi nào đến? và hoa từ đâu mà có?
Đáp: Nếu bảo chư Thiên từ
cõi nào đến, thật sự chúng tôi không biết. Chỉ thấy trong kinh nói là chư Thiên
ở các cõi Trời, như cõi Dục gồm có 6 cõi Trời: Tứ thiên vương thiên, Đao lợi
thiên, Dạ ma thiên, Đâu suất thiên, Hóa lạc thiên và Tha hóa tự tại thiên. Nhưng
thực tế, thì chúng ta không thấy. Mà không thấy, thì làm sao nói được.
Tuy nhiên, theo chỗ chúng tôi hiểu, thì chư Thiên cũng từ nơi con người
mà ra, chớ không có ở đâu xa. Tại sao chúng tôi dám nói như thế? Bởi vì, chúng
ta thử nghiệm xét kỹ lại coi: Phật, Bồ tát, Thanh Văn, Duyên Giác… những vị nầy
từ đâu mà có? Có phải các ngài từ cõi nào xa xôi đến đây không? Hay tất cả cũng
chỉ là con người? Đã là con người, thì các ngài cũng có một đời sống: ăn, mặc, ở
bình thường như chúng ta. Chẳng qua các Ngài khác hơn chúng ta là ở chỗ trình độ
giác ngộ của các Ngài hơn chúng ta mà thôi. Xét nhân địa tu hành và quả vị đạt
được của những vị nầy mỗi mỗi đều có sai khác. Căn cứ trên nhân và quả mà các
Ngài có những tên gọi khác nhau. Nhưng tựu trung cũng là con người và sống ở cõi
nầy.
Chư Thiên cũng thế. Những vị nầy cũng là con người, nhưng khác hơn
con người thường là ở chỗ, những vị nầy do thực hành Thập Thiện mà kết quả được
thụ hưởng phước báo an vui hơn những người giữ 5 giới và những người không biết
tu hành giữ giới. Nên gọi những vị nầy là Trời. Như vậy, thì chúng ta thấy nó
rất thực tế trong sự tu hành. Tất cả đều căn cứ trên quả vị đạt được mà có những
tên gọi khác nhau đó thôi. Đây là theo chỗ nghiên cứu hiểu biết của chúng tôi.
Dĩ nhiên, mỗi người có những lý giải và nhận xét hiểu biết khác nhau.
Nhưng theo tôi, lý giải nào cũng phải phù hợp và phải dựa trên thực tế.
Vì đạo Phật là đạo thực tế, không viễn vông mơ hồ, huyền hoặc. Nếu bảo rằng, chư
Thiên ở các cõi khác đến, cõi đó ở đâu? Và hình thù của họ ra sao? Nhân địa tu
hành của họ, chỉ là tu mười điều lành thôi. Nếu họ từ các cõi khác đến, tất
nhiên họ phải có thần thông. Thần thông của họ phải nhanh hơn gấp mấy ngàn lần
phi thuyền hiện nay.
Tóm lại, qua những luận cứ trên, theo tôi quả quyết,
trong kinh nói chư Thiên cũng chính là con người mà thôi. Nhưng con người giữ
tròn Thập Thiện, nên được phước báo an vui hơn những người thường khác.
Hỏi: Danh hiệu Đại
Thế Chí có ý nghĩa gì? Và trong kinh có nói: Khi Phật ra đời đại địa rúng động.
Vậy xin hỏi: hiện tượng quả đất rúng động nầy có giống với hiện tượng động đất
hiện nay không?
Đáp: Danh hiệu
Đại Thế Chí là tiêu biểu cho người có một trí huệ siêu việt và một ý chí, nghị
lực phi thường. Ngài là một vị Bồ tát hầu cận bên đức Phật Di Đà. Căn cứ theo
tượng Tam Thánh (Di Đà, Quán Âm, Thế Chí) thì Ngài đứng bên hữu và Bồ tát Quán
Âm đứng bên tả. Ngài tiêu biểu cho đại trí huệ. Bồ tát Quán Âm tiêu biểu đại từ
bi. Bi và trí phải song vận. Cả hai không thể thiếu một trong sự tu hành, cũng
như khi ra giáo hóa. Thế nên Bồ tát Đại Thế Chí và Bồ tát Quán Âm không tách rời
nhau.
Ngài luôn dùng trí huệ soi sáng để hóa độ chúng sanh ở cõi đời uế
trược nầy.Vì trí huệ có công năng phá tan mọi si mê. Hình ảnh của Ngài nói lên
một sức mạnh trí huệ phi thường mà người tu hành cần phải có. Nhờ có trí huệ chỉ
đạo nên mới dẹp trừ hết vô minh phiền não.
Có như thế, thì hành giả tu hành
mới mau được giải thoát. Nên mỗi khi niệm đến danh hiệu Ngài, chúng ta nhớ đến
trí huệ sáng ngời và ý chí kiên cường dũng mãnh của Ngài. chúng ta quyết noi
gương Ngài và kiên quyết vượt thắng mọi chướng duyên thử thách trên bước đường
tu học. Có thế, thì mới xứng đáng niệm danh hiệu Ngài. Và chúng ta mới có được
lợi ích.
Còn nói Phật ra đời, cả đại địa đều chấn động, đây cũng là một
sự tiêu biểu mà thôi. Thường khi có một vị Thánh nhơn ra đời, thì có những hiện
tượng khác thường. Điều nầy nói lên một sự kỳ đặc mà người thường không bao giờ
có. Sự chấn động đó không phải là như động đất hiện nay. Nếu cả đại địa đều động
đất như hiện nay, thì cả nhơn loại làm sao sống sót. Như vậy, Phật ra đời có ích
lợi gì cho nhơn loại đâu? Chẳng những không đem đến sự lợi ích cho nhơn loại, mà
còn hủy diệt nhơn loại nữa. Như thế, sao gọi là Phật được?
Hiện tượng
động đất hiện nay là một hiện tượng tự nhiên của thiên nhiên. Đó là dấu hiệu cho
chúng ta biết quả địa cầu đã đến hồi nứt rạn và đi lần đến tan hoại.
Hỏi: Tại sao ở cõi
nầy, đại đa số đều thờ Phật Thích Ca, mà Phật tử gặp nhau, thì lại chào nhau
bằng câu Phật hiệu A Di Đà Phật mà không niệm Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni
Phật?
Đáp: Vì Đức Phật Thích Ca
Mâu Ni là giáo chủ ở cõi Ta Bà nầy, nên người ta tôn thờ Ngài là để nhớ đến công
ơn giáo hóa lớn lao của Ngài. Nhờ sự chỉ giáo của Ngài mà người ta noi theo tu
hành nên được giải thoát. Do đó, hầu hết các chùa Phật giáo Bắc Tông cũng như
Nam Tông đều kính trọng tôn thờ Ngài. Còn về danh hiệu của Ngài, người ta chỉ
niệm vào những dịp lễ lộc hoặc vào những thời khóa lễ tụng niệm. Chớ người ta
không niệm danh hiệu Ngài khi gặp và chào nhau. Bởi lẽ, phật giáo có nhiều Tông
phái, nhưng chỉ có những người tu theo Tịnh độ tông mới chào nhau bằng câu Phật
hiệu A Di Đà mà thôi. Còn các Tông phái khác, thì không có.
Sở dĩ những
liên hữu phật tử khi gặp và chào nhau như thế, mục đích là để họ thức nhắc cho
nhau về một vị Giáo Chủ mà họ đang hướng lòng về mong mỏi gặp Ngài. Đây là một
cách chào nhau vừa lịch sự trang trọng mà cũng vừa thức nhắc cho nhau đừng quên
câu hiệu Phật. Vì người tu Tịnh Độ, lấy câu trì danh Phật hiệu: “Nam Mô A Di Đà
Phật” làm phương châm hành trì. Bất luận thời gian và nơi chốn nào, hành giả
cũng phải lưu tâm nhớ niệm. Có thế, thì mới mong đạt thành ý nguyện vãng sanh về
Cực lạc. Do đó, nên việc thức nhắc cho nhau bằng cách chắp tay xá chào và cả hai
đồng niệm câu A Di Đà Phật, thật là hợp lý và hữu ích.
Hỏi: Vào những ngày
thọ Bát, con nhờ con của con chở giùm, thì thấy nó không vui. Con kêu xe taxi
đi, khi đến chùa thọ Bát tu học, thì con cảm thấy rất buồn. Vậy xin hỏi làm sao
cho hai mẹ con đều không mang tội?
Đáp: Nếu Phật tử buồn vì
nhờ con chở đến chùa mà nó không vui lòng giúp cho, thì tôi thành thật khuyên
Phật tử không nên buồn. Vì Phật tử nhờ mà nó không chở, đôi khi nó có những lý
do riêng của nó. Phật tử nên chịu khó tìm hiểu mà cảm thông với tuổi trẻ ở xứ
nầy. Nếu nó không chở, Phật tử kêu taxi đi, thì có gì đâu phải buồn và cũng
không có gì là mang tội cả.
Nếu Phật tử buồn, thì chỉ thêm thiệt thòi
cho mình trong ngày thọ Bát tu học mà thôi. Mục đích phật tử đến chùa tu học là
để cho tâm được an tĩnh vui vẻ. Chớ nếu như mang tâm sự buồn phiền thì đâu có
lợi ích gì! Cho nên, khi nào mình nhờ con mà nó vui vẻ giúp chở giùm, thì đó là
đứa con có hiếu và rất tốt. Vì nó ý thức bổn phận làm con, biết yêu thương tôn
kính và đây cũng là dịp tốt để chúng nó báo ân phần nào cho cha mẹ. Còn nếu nó
không chở, thì mình nên tự xét, biết đâu vì mình thiếu phước, nên không thể nhờ
con được.
Xét như thế, thì mình lại cố gắng tu nhiều hơn. Phật tử nên
tìm hiểu: vì sao nó không chở mình? Phật tử có làm gì nó buồn không? Hay là tại
vì nó làm việc gì đó mệt nhọc, hoặc thức khuya học hành hay cuối tuần tiệc tùng
với bạn bè, nên nó cảm thấy mệt mỏi cần phải ngủ thêm cho đủ sức khỏe. Như thế,
thì Phật tử nên thương và cảm thông nhiều hơn, chớ đừng có thái độ trách móc hay
la rầy làm mình mất vui mà chúng nó cũng mất vui. Đã mất vui, thì việc đi chùa
của Phật tử thật sự không được lợi ích.
Tốt hơn hết, là Phật tử nên khéo
léo linh động mà xử sự sao cho việc đi chùa của mình và trong gia đình đều được
hòa thuận an vui, như thế, mới xứng đáng là một Phật tử hiểu đạo tu hành và mới
cảm hóa được gia đình. Bằng ngược lại, thì sẽ gây thêm sự phiền não cho mình và
cho gia đình mà thôi.
Không nên vì một việc nhỏ nhoi như thế, mà làm cho
gia đình mất đi hòa khí. Nhứt là tình mẹ con phải bị sứt mẻ. Đôi khi chúng nó
còn chê cười mình là chỉ biết đi chùa thôi, chớ thật sự không biết tu hành gì
cả. Vì người biết tu là phải luôn sửa đổi tâm tánh, làm thế nào cho phiền não
tham, sân, si… càng ngày càng mỏng dần, thì điều đó mới hay và mới thực sự là
người biết tu hành.
Tóm lại, nếu phật tử nhờ nó mà nó không chở, phật tử
buồn giận nó, thì lòng phật tử bất an. Như vậy, thì chính mình càng thêm phiền
não, sự tu hành không được tiến bộ. Còn con của phật tử không phải có tội với
Phật mà chỉ có lỗi là làm cho phật tử không vui. Như vậy, tốt hơn hết là mẹ con
nên hiểu và thông cảm, thương yêu giúp đỡ cho nhau, thì thật là tốt đẹp biết
mấy. Và như thế, thì việc tu hành hay đi chùa của phật tử cũng như bổn phận làm
con trả hiếu phần nào cho cha mẹ, cả hai đều được lợi ích thiết thực
vậy.
Kính chúc phật tử nên cố gắng an nhẫn tu hành.
Hỏi: Ngày con đi thọ
bát đến chiều về nhà. Khi về nhà, con làm thức ăn mặn cho con của con ăn. Xin
hỏi: như thế có được hay không?
Đáp: Câu hỏi của
Phật tử không nói rõ là khi Phật tử thọ Bát từ sáng đến chiều trong ngày chủ
nhật, hay là thọ Bát ngày thứ bảy mà Phật tử không ngủ lại chùa, chiều lại về lo
cơm nước cho con. Nếu Phật tử chỉ thọ Bát ngày chủ nhật, sáng thọ giới tu học
đến chiều xả giới, thì việc nấu nướng của Phật tử không có gì sai trái.
Ngược lại, nếu Phật tử phát nguyện thọ Bát trong thời gian 24 tiếng đồng
hồ, nghĩa là từ sáng thứ bảy cho đến sáng chủ nhật mới xả giới, thì việc về nhà
nấu mặn của Phật tử, nó không đúng luật Phật chế. Vì Phật tử đã phát nguyện tịnh
tu trọn một ngày đêm ở tại chùa, mà Phật tử về nhà ngủ nghỉ, như thế là đã trái
với luật Phật chế cho người tại gia thọ Bát quan trai giới tập tu theo công hạnh
của người xuất gia rồi. Như vậy, nếu Phật tử hỏi về việc thọ Bát trọn một ngày
đêm, thì tôi thành thật khuyên Phật tử tốt hơn hết là nên sắp xếp việc nhà cho
ổn thỏa, trước khi Phật tử đến chùa thọ Bát. Có như thế, thì cả hai mới được an
vui, lợi ích.
Hỏi: Nếu ngày thọ
Bát, con của con cần đến con giúp một vài việc cần thiết, khi ấy, con không đến
chùa thọ Bát được, thì lòng con cảm thấy bất an. Còn nếu con không nhận giúp cho
con của con, thì nó không vui. Vậy xin hỏi: Phải giải quyết như thế nào cho cả
hai đều được vui vẻ?
Đáp: Việc nầy
thật khó giải quyết cho cả hai đều được lưỡng toàn. Vì ở đời, người ta thường
nói: “Không ai có thể bắt cá hai tay”. Nếu cố tình bắt như thế, thì rốt lại chỉ
là uổng công mà không được gì cả.
Trường hợp trên, chúng tôi chỉ xin
thành thật khuyên nhắc Phật tử, nên mở rộng cõi lòng mà giúp cho con nó được vui
vẻ. Bởi lẽ, Phật tử còn ở tại gia, đương nhiên là nó còn sự quan hệ mật thiết
trong gia đình rất lớn. Nếu chỉ vì sự lợi ích cho riêng cá nhân mình, mà mình
không nghĩ gì đến sự giúp đỡ cho kẻ khác, thì điều đó nó cũng chưa đúng ý nghĩa
của sự tu hành. Hơn nữa, sự giúp đỡ đó, lại là giúp cho người thân ruột thịt của
mình. Sự tu hành ở tại gia, Phật tử nên cố gắng giữ làm sao cho mình và người,
nói chung là trong gia đình đều được thuận thảo trong ấm ngoài êm, như thế, mới
thật là quý giá tốt đẹp. Bằng ngược lại, mình chưa thật sự cắt đứt mối giây liên
hệ, thì làm sao lòng không áy náy buồn phiền khi mình làm theo ý
mình.
Như vậy, cả hai đều mất vui. Giả như, ngày hôm ấy, Phật tử nhứt
quyết là phải tới chùa thọ Bát, nhưng Phật tử nên tự tra vấn lại lòng mình, mình
có thật sự an tâm tu học hay không? Hay là thân tuy ở trong chùa, mà tâm thì mãi
bị ray rứt dày xéo khó chịu khi nghĩ đến mình không giúp được cho con mình.
Từ đó, mình cảm thấy hối hận buồn lòng cho chính mình. Như vậy, thì thử
hỏi suốt ngày thọ Bát hôm đó, Phật tử có được yên tâm tu học với chúng bạn hay
không? Và có được chút gì lợi lạc cho tâm hồn hay không? Chẳng những không được
lợi lạc mà còn có tội nữa. Vậy tốt hơn hết, Phật tử nên giúp cho con của Phật tử
và đồng thời tìm cách giải thích cho chúng nó biết về việc đi chùa thọ Bát, tu
hành của phật tử. Mục đích là để cho chúng nó cảm thông mà sau nầy ít phải nhờ
vả đến Phật tử. Như vậy, thì tình mẹ con không bị sứt mẻ và càng yêu thương
nhiều hơn. Vì thỉnh thoảng chúng nó mới nhờ giúp giùm, chớ đâu phải nó nhờ mình
hoài như thế.
Tóm lại, người Phật tử biết tu nên khéo léo linh động uyển
chuyển trong việc tu hành, chớ đừng có cố chấp quá mà làm mất đi sự hòa khí
trong gia đình, nhứt là tình mẹ con. Đó là điều trái với lẽ đạo và trái với sự
tu hành của chúng ta. Cố gắng càng tập tu hạnh hỷ xả chừng nào, thì Phật tử càng
được an lạc nhiều chừng ấy. Kính chúc Phật tử nên an nhẫn mà cố gắng tu tập.
Hỏi: Con chưa xuất
gia mà đã cạo tóc, nên người ta lầm tưởng con là người xuất gia, mỗi khi gặp con
ai nấy cũng đều chắp tay kính cẩn xá chào, con cũng cung kính xá lại. Xin hỏi:
Như thế, con có bị tổn phước hay không?
Đáp: Việc đó
không có gì là tổn phước cả. Chẳng qua là người ta hiểu lầm mà thôi. Vả lại,
Phật tử đâu có ý muốn như thế. Nhưng trong khi người ta xá chào Phật tử, thì
Phật tử cũng xá chào lại. Điều đó, cả hai đều rất tốt. Bị tổn phước, với điều
kiện là khi người ta cung kính chắp tay xá chào Phật tử mà Phật tử không cung
kính xá chào đáp lại. Chẳng những thế, Phật tử lại còn có tâm đắc chí kiêu mạn,
thích để người ta lầm tưởng mà cung kính tôn trọng mình, xem mình như người xuất
gia. Nếu Phật tử có tâm như thế, thì không nên và sẽ bị tổn đức rất lớn. Bằng
không, thì không có gì là tổn phước cả. Phật tử yên tâm không có gì phải lo
sợ.
Hỏi: Con có ý định
xuất gia, nhưng vì lý do sức khỏe hay đau yếu bệnh hoạn, con không thể ở tại
chùa được. Vậy xin hỏi: sau khi xuất gia con có thể ở tại nhà tu được
không?
Đáp: Điều nầy chúng tôi
không thể trả lời dứt khoát được. Nếu Phật tử có ý muốn như thế, thì tốt hơn hết
là nên trình bày rõ cho vị thầy nào mà Phật tử định muốn thế phát xuất gia. Sau
khi trình bày cặn kẻ, thì tùy vị thầy đó chỉ dạy và giải quyết cho Phật tử được
mãn nguyện. Nhưng, theo ý tôi, Phật tử vì sức khỏe kém, hay đau yếu bịnh hoạn,
tốt hơn là Phật tử nên giữ hình thức của người tu tại gia, và cố gắng tập tu
theo bản nguyện của người xuất gia, là diệt trừ phiền não ra khỏi Tam giới, như
thế, được phần nào thì tốt phần ấy.
Nếu Phật tử xuất gia mà không học
hỏi và hành trì đúng theo hạnh nguyện của người xuất gia, thì chỉ càng thêm tội
mà thôi. Chi bằng Phật tử cứ tu tại gia, (vì lớn tuổi yếu đuối không tu học ở
trong chùa được) gắng công chí thành niệm Phật, cầu vãng sanh, như thế, theo
tôi, thì có lẽ tốt hơn. Trên hình thức, Phật tử tuy ở tại gia, nhưng xét về
tánh, thì Phật tử đang hướng về xuất gia. Bởi xuất gia có 3 nghĩa: 1. Xuất thế
tục gia. 2. Xuất phiền não gia. 3. Xuất Tam giới gia. Về 3 nghĩa nầy, nếu Phật
tử ở tại gia mà có ý hướng xuất gia, quyết chí tu tập để ra khỏi nhà phiền não
và tiến lên là ra khỏi nhà Tam giới (dục giới, sắc giới và vô sắc giới) Được
như thế, thì thân tướng tuy ở tại gia mà tâm tánh thì đã xuất gia rồi
vậy.
Mong Phật tử suy xét lại cho thật kỹ trước khi quyết định một vấn đề
rất hệ trọng cho đời tu của mình. Đó là lời khuyên thành thật của chúng tôi.
Kính chúc Phật tử luôn được an vui mạnh khỏe và luôn tinh tấn tu hành.
Hỏi: Con ăn chay
trường, nhưng vì hoàn cảnh con phải nấu thức ăn mặn, phải xắt thịt cá để nấu ăn,
như vậy con có mang tội hay không?
Đáp: Việc ăn chay trường
là chuyện phát nguyện riêng của Phật tử. Điều đó rất tốt. Nhưng không vì thế, mà
Phật tử không nghĩ và lo đến những người khác trong gia đình. Đó là hoàn cảnh
bắt buộc. Bởi lẽ, Phật tử còn ở tại gia, chỉ ở trong phạm vi tu nhơn thừa, chưa
phải là người tu hạnh xuất thế. Nên việc nấu nướng cho gia đình, đó là bổn phận
của Phật tử.
Việc xắt thịt cá, nấu đồ ăn mặn, thì không có tội lỗi gì
cả. Có tội lỗi là khi nào Phật tử mua những con vật còn sống, rồi chính Phật tử
ra tay giết hại chúng nó để nấu cho gia đình ăn, thì điều đó là Phật tử đã phạm
tội sát sanh. Đã thế, thì việc ăn chay trường của Phật tử chỉ là vô ích mà thôi.
Vì trái với lương tâm và bản nguyện cũng như đã phạm giới sát.
Ngoài ra,
nếu Phật tử nấu ăn mà không có trực tiếp sát hại sanh vật, thì Phật tử yên tâm
không có gì là tội lỗi cả.
Hỏi: Con ăn chay
trường, thường ngày, sáng con tụng kinh Pháp Hoa và chiều lại niệm Phật công cứ.
Nhưng khi đi chợ, thấy thịt cá tươi ngon, con thường mua về nấu cho con của con
ăn. Xin hỏi: Như vậy con có tội hay không?
Đáp: Việc ăn
chay trường và giữ đúng thời khóa tụng niệm của Phật tử, thật là điều rất tốt và
quý giá. Nhưng Phật tử nên nhớ, Phật tử vẫn còn là người tu tại gia, tức tu theo
nhơn thừa. Mà tu nhơn thừa, thì Phật dạy người Phật tử giữ gìn 5 giới cấm căn
bản. Việc giữ giới, tùy theo mỗi người gìn giữ nghiêm nhặt hay không nghiêm nhặt
và tùy theo nghiệp sát hại nặng nhẹ mà quả báo có sai khác. Mặc dù Phật tử ăn
chay trường, tụng kinh niệm Phật, nhưng, vì còn sống trong gia đình, nên việc lo
cho gia đình hay con cái ăn uống là chuyện không sao tránh khỏi. Nói rõ hơn, đó
là chuyện sinh hoạt bình thường.
Tuy nhiên, nếu Phật tử mua những con
vật đã chết, ngoài thịt ra, thì không có gì mang tội cả. Ngược lại, nếu Phật tử
mua những con vật còn sống, rồi Phật tử tự tay giết chúng để nấu ăn, thì điều
đó, tất sẽ mang tội sát sanh. Và đó cũng là phạm cái tội cố sát. Bằng ngược lại,
Phật tử chỉ mua những con vật đã chết và người ta đã làm sẵn, thì không đến đổi
phải mang tội.
Đó là luận theo tương đối, chớ nếu nói cho cùng, thì hiện
chúng ta là phàm phu sống trong vòng nghiệp thức sai sử, mọi hành động, ý nghĩ,
nói năng, ít nhiều gì chúng ta cũng đều có tội lỗi cả. Nên Phật tử chúng ta cố
gắng giữ được phần nào thì tốt phần đó. Bởi thế, giới luật tiếng Phạn gọi là Ba
la đề mộc xoa, Trung Hoa dịch là Biệt giải thoát. Nghĩa là giải thoát từng phần,
từng giới. Người Phật tử giữ được giới nào thì thoát khổ giới đó. Thí dụ chúng
ta giữ giới không trộm cắp, thì cuộc sống chúng ta khỏi phải lo sợ tù tội và quả
báo đời sau cũng được tốt đẹp.
Hỏi: Tại sao trong
chùa trên chánh điện thì thờ Phật Thích Ca, mà khi tu thì người Phật tử lại niệm
Phật Di Đà?
Đáp: Thờ Phật Thích Ca, vì
Ngài là giáo chủ cõi Ta bà nầy. Chúng ta ngày nay biết đến và tu theo Đạo Phật,
cũng nhờ sự thuyết giáo chỉ dạy của Ngài. Nên chúng ta tôn thờ Ngài là để một
mặt, nhớ đến công ơn giáo hóa của Ngài, mặt khác, cũng để noi gương học hỏi và
làm theo những điều Ngài đã thật hành được giác ngộ, giải thoát.
Còn tại
sao phật tử khi tu lại niệm Phật Di Đà? Không phải người Phật tử nào khi tu cũng
trì niệm danh hiệu Phật Di Đà hết. Sở dĩ chúng ta niệm danh hiệu Phật A Di Đà,
lý do, là vì chúng ta là những người đang tu theo pháp môn Tịnh Độ. (Và chỉ có
những người tu theo pháp môn Tịnh độ). Mà pháp môn Tịnh độ lấy sự trì danh niệm
Phật làm tiêu đích chính. Do đó, nên Đức Phật Thích Ca khuyên chúng ta nên cố
gắng niệm danh hiệu Đức Phật Di Đà. Nếu chúng ta thiết thiệt niệm danh hiệu
Ngài, chẳng những hiện đời chúng ta được an lạc mà tương lai cũng được an
lạc.
Ngoài ra, chúng ta, vì căn cứ theo bản nguyện của Đức Phật Di Đà,
trong 48 điều đại nguyện của Ngài, nguyện nào Ngài cũng muốn tiếp dẫn chúng sanh
về cõi nước của Ngài. Nếu như có chúng sanh nào thành tâm tha thiết ngày đêm
tưởng niệm đến danh hiệu Ngài, thì khi lâm chung, Ngài sẽ phóng quang tiếp dẫn
về cõi nước Cực Lạc của Ngài. Bởi thế, nên người tu Tịnh độ đều hết lòng niệm
danh hiệu Ngài để được vãng sanh về Cực lạc. Ngược lại, những người tu theo các
pháp môn khác, thì không có niệm danh hiệu Ngài. Đó là tùy theo căn cơ trình độ
và sở thích của mỗi người.
Hỏi: Tại sao người
xuất gia, khi cha mẹ mất mà không lạy lúc tẩn liệm cũng như lúc thiêu hay chôn?
Như thế, thì có phạm tội bất hiếu hay không?
Đáp: Xin thưa
ngay là không có gì phạm tội bất hiếu cả. Vì người xuất gia, trước khi vào chùa
cạo tóc, đã có xin phép cha mẹ và được cha mẹ đồng ý. Và trước khi làm lễ thế
phát xuất gia, người con lạy cha mẹ 3 lạy. Ba lạy đó, nói lên lòng biết ơn cha
mẹ và cũng để trả hiếu đáp đền lại công ơn giáo dưỡng sâu dầy của cha mẹ. Từ đó
về sau, người xuất gia không còn lạy cha mẹ nữa. Lý do, là vì sợ cha mẹ bị tổn
đức. Bởi người xuất gia, tuy hình hài là do cha mẹ sanh ra, nhưng huệ mạng là do
giới luật của Phật làm tăng trưởng. Mà “pháp thân huệ mạng” đối với người xuất
gia thật rất quan trọng. Nên sau khi thọ giới luật rồi, người xuất gia phải gìn
giữ một cách rất nghiêm nhặt. Nhứt là sau khi thọ giới Tỳ kheo, tức Đại giới hay
Cụ túc giới, thì người xuất gia càng phải thận trọng gìn giữ nhiều hơn nữa. Do
đó, nên giới đức ngày càng tăng trưởng.
Trong khi đó, thì cha mẹ là
người tại gia, chỉ gìn giữ 5 giới cấm, cho nên xét về giới đức thì kém hơn rất
nhiều. Do đó, theo luật Phật dạy, thì cha mẹ kỉnh Phật phải trọng Tăng. Dù ngày
xưa là con, nhưng bây giờ là người của đạo pháp, sống trong hàng ngũ Tăng già,
nên cha mẹ cũng phải kính trọng như bao nhiêu vị Tăng khác. Đã kính trọng như
thế, thì làm sao cha mẹ dám để cho người xuất gia lạy mình.
Tóm lại, vì
sợ cha mẹ bị tổn đức mà không lạy, chớ không phải có ý xem thường hay bất hiếu
như người đời lầm tưởng. Hơn nữa, sự báo hiếu của người xuất gia không phải chỉ
có hình thức lễ lạy bề ngoài như người thế gian, mà những vị đó thường đem những
lời Phật Tổ dạy để khuyến nhắc cha mẹ, hầu để cha mẹ thức tỉnh mà lo tu hành để
được an vui giải thoát. Đó mới thật sự là báo ân cho cha mẹ vậy.
Hỏi: Trong những ngày
tu, con lãnh phần nấu cơm, khi con giở cơm nguội ra, để lấy nồi nấu cơm mới. Khi
rửa nồi, thấy trong nồi còn dính vài hạt cơm, con sợ bỏ thì tội, nên con đã bốc
ăn. Vậy xin hỏi: Con có phạm giới ăn phi thời không?
Đáp: Nếu bảo
rằng phạm giới ăn phi thời, thì Phật tử đã phạm. Đúng luật Phật dạy, thì quá giờ
ngọ những người xuất gia không được ăn. Phật tử đến chùa thọ Bát quan trai giới,
coi như quý vị tập tu theo hạnh người xuất gia một ngày, hay nhiều ngày cũng
thế.
Tuy nhiên, cũng trong luật nói: chư Tổ xét thấy, người đời nay cơ
thể yếu đuối hay sanh đau yếu bịnh hoạn, nên các Ngài tạm cho người xuất gia ăn
chiều gọi là Dược thạch. Chữ dược thạch có ý nghĩa là ngày xưa người ta lấy đá
mài thành kim để chích trị bịnh. Từ đó, trong thiền môn dùng hai chữ nầy để nói
lên người tu khi dùng cơm chiều chẳng khác nào như là uống thuốc để trị bịnh
(bịnh đói) nên trong khi ăn không được sanh vọng tâm tham đắm.
Và cũng
trong luật, Tổ nhắc nhở là khi ăn, chúng ta phải sanh lòng hổ thẹn. Như vậy, chư
Tổ tạm cho, nhưng khi ăn phải biết hổ thẹn, rằng, mình không giữ đúng như lời
Phật dạy.
Như vậy, thì việc ăn vài hạt cơm của Phật tử là đã phạm phi
thời trong phi thời. Nghĩa là Phật tử đã ăn thêm sau giờ ăn chiều, dù chỉ là vài
hạt cơm thôi. Tuy nhiên, dù sao Phật tử cũng có lòng sợ tội, đối với những hạt
cơm do Đàn na thí chủ dâng cúng. Đó là điều đáng khen. Nhưng lần sau, nếu khi
rửa nồi mà nó còn dính những hạt cơm trong nồi như thế, thì tốt hơn hết là Phật
tử nên để vào vật gì đó cho chim ăn. Đó cũng là điều bố thí cho chúng sanh. Như
thế, thì được vẹn toàn cả hai vậy.
Hỏi: Trong gia đình,
nếu có người thân qua đời, con cháu cúng cầu siêu trong 49 ngày, niệm Phật mỗi
đêm trước bàn Phật. Nhưng sau 49 ngày, thì còn cầu siêu bằng cách niệm Phật tiếp
tục nữa không?
Đáp: Việc con
cháu tụng kinh niệm Phật cho người thân của mình trong vòng thời gian 49 ngày,
đó là điều rất quý kính. Đây cũng là noi theo trong kinh dạy mà Phật tử làm
theo. Như thế, thì rất đúng không có gì là sai trái cả. Tuy nhiên, điều quan
trọng là trong khi tụng niệm, mọi người phải thành tâm tha thiết, đem hết lòng
thành để tụng niệm cầu nguyện. Được thế, thì người tụng niệm được lợi lạc mà
hương linh cũng được phần nào lợi lạc.
Theo kinh Địa Tạng nói: người chết
sau 49 ngày, gọi là chung thất, thì vong linh của người mất, tùy nghiệp mà thọ
sanh chiêu cảm quả báo. Nếu hiện đời tạo nhiều điều lành, thì sẽ thọ sanh về
cảnh giới an lành. Ngược lại, thì thọ sanh vào cảnh khổ. Tùy chỗ tạo nghiệp
thiện ác, mà thọ sanh qua các loài và các cảnh giới sai biệt trong vòng lục đạo
luân hồi. Cũng chính theo lời dạy nầy, mà Phật tử thường hay cúng Trai Tăng vào
ngày chung thất.
Mục đích là nhờ sức chú nguyện của chư Tăng Ni, gọi là
đức chúng như hải, mà hương linh thác sanh về cảnh lành. Tuy nhiên, nếu luận
theo ý nghĩa của hai chữ cầu siêu, thì không phải chỉ trong 49 ngày thôi. Vì cầu
siêu có nghĩa là cầu mong vượt qua: “từ cảnh giới tối tăm xấu ác, vượt qua đến
cảnh giới tốt đẹp an lành”. Hiểu theo nghĩa đó, thì lúc nào ta cũng phải cầu
siêu, cầu siêu cho chính bản thân ta, đồng thời cũng cầu siêu cho mọi người luôn
luôn được sống trong an lành.
Theo ý nghĩa đó, thì lúc nào ta cũng phải
cầu siêu cho ta và cho người mãi mãi thoát khỏi khổ đau để được an vui giải
thoát, chớ không phải chỉ trong phạm vi 49 ngày thôi.
Vì thế, sau 49
ngày, phật tử và những thân nhân trong gia đình tiếp tục tụng kinh niệm Phật,
thì đó là điều rất tốt. Dù cầu siêu hay không, người Phật tử cũng nên tụng kinh
niệm Phật để cho hiện đời mình được an lạc và đời sau cũng được an lạc. Và sau
mỗi lần tụng kinh niệm Phật như thế, thì Phật tử cũng nên cầu nguyện cho hương
linh thân nhân của mình, cũng như cho những vong hồn khác, rộng ra là cho cả
pháp giới chúng sanh hữu tình vô tình đều trọn thành Phật đạo. Đây là thể hiện
tấm lòng từ bi vị tha của người Phật tử, như thế, cũng rất là tốt đẹp vậy.
Hỏi: Hiện đời nầy,
con vâng theo lời Phật dạy làm lành lánh dữ, như làm phước, niệm Phật v.v..
nhưng một hôm nào đó, con bị tai nạn chết bất ngờ, như khi đang tắm biển bị sóng
thần cuốn mất. Như vậy, thì thần thức của con sẽ đi về đâu? Có được về cõi Cực
lạc không?
Đáp: Luận về
nghiệp báo, trong kinh Phật dạy có nhiều loại nghiệp. Trong số những loại nghiệp
đó, thì có 2 loại nghiệp báo mà người Phật tử thường nghe nói đến nhiều nhứt. Đó
là: “Tích lũy nghiệp và Cận tử nghiệp”. Về Tích lũy nghiệp, tích lũy nó có nghĩa
là cất chứa chồng chất thêm lên, còn nghiệp là hành động lặp đi lặp lại nhiều
lần thành thói quen, Phật giáo gọi đó là nghiệp. Như vậy, hiện đời, nếu Phật tử
thường tạo những nghiệp lành, như đi chùa, tụng kinh, niệm Phật, lạy Phật, bố
thí, cúng dường v.v… thì những nghiệp lành nầy càng ngày càng nhiều, nó được cất
chứa vào trong kho A Lại Da Thức hay Tàng thức. Chắc chắn là không bao giờ mất.
Trái lại, tạo nghiệp ác cũng như thế. Đó gọi là Tích lũy nghiệp.
Còn Cận
tử nghiệp thì sao? Cận là gần, tử là chết, nghĩa là cái nghiệp gần với cái chết.
Trong khi sắp chết, trong tâm ta khởi lên nghiệp lành hoặc nghiệp dữ, thì lúc đó
ta tắt thở, tất nhiên là ta sẽ đi theo cái nghiệp mà mình khởi lên trong khi sắp
tắt thở. Cái nghiệp khởi lên rất mạnh.
Thí dụ như người nào đó làm cho
ta phải bực mình, nổi sân hận lên, hoặc ta nhớ lại một hình ảnh nào đó quá sâu
đậm, như thương hoặc ghét người nào hoặc là món đồ nào, liền khi đó ta tắt thở,
thì thần thức sẽ theo cái nghiệp thức nầy mà thọ sanh vào cảnh đó. Đó là đi theo
Cận tử nghiệp ác. Ngược lại, khi gần chết, bỗng có người niệm Phật làm ta nhớ
đến Phật, hoặc giả hằng ngày ta thường xuyên niệm Phật, tuy lúc đó không có
người niệm Phật, nhưng nhờ cái thói quen niệm Phật hằng ngày, nên lúc sắp chết
ta trực nhớ đến Phật, ngay lúc đó tắt thở, thì chắc chắn là ta sẽ đi theo Phật.
Đó là Cận tử nghiệp lành.
Như vậy, nếu hằng ngày ta tu tạo những điều
lành, mà lúc sắp chết ta khởi nghiệp dữ, hoặc lưu luyến thương tiếc điều gì, khi
nhắm mắt, phải theo Cận tử nghiệp dữ mà thọ báo. Tuy nhiên, trong lúc thọ báo
của Cận tử nghiệp, thì cái Tích lũy nghiệp thiện ác kia không bao giờ mất. Khi
trả hết Cận tử nghiệp, tùy thời gian lâu mau không nhứt định, thì ta trở lại thụ
hưởng cái Tích lũy nghiệp mà hiện đời ta đã gây tạo. Nếu là nghiệp lành, thì ta
hưởng cảnh lành, như làm người được có địa vị cao trong xã hội. Hay giàu sang
tột bực v.v… Ngược lại, thì chiêu cảm trả quả ác .
Tóm lại, Phật tử đừng
có lo sợ, khi hiện đời mình làm lành, tu tạo nhiều phước đức, bất thần bị tai
nạn chết, gọi là: “chết bất đắc kỳ tử”, thì thần thức không biết đi đâu. Nghĩa
là sớm hay muộn gì, nó cũng đi theo con đường mà mình đã chọn khi còn mạnh khỏe.
Điều quan trọng là trong khi còn mạnh khỏe, ta nên cố gắng tu tạo nhiều nghiệp
lành, để sau khi nhắm mắt ta thác sanh về cảnh lành. Như cây ngã, thì sẽ ngã
theo chiều mà nó đã nghiêng sẵn. Điều quan trọng là hằng ngày ta nên cố tạo cho
mình có một chiều nghiêng sẵn về những điều lành cho thật mạnh, thì khi nhắm mắt
ta sẽ ngã theo chiều nghiêng điều lành đó.
Hỏi: Khi chúng con
thọ giới Bát quan trai, trong 8 giới, thì giới không sát sanh lại đứng đầu. Tuy
nhiên, khi chấp tác, chúng con làm vệ sinh hay tảo địa… chúng con quét đi rất
nhiều con vật nhỏ, nhứt là kiến, nhện, cuốn chiếu v.v… Chúng con cố gắng tránh
mà cũng không khỏi. Như vậy, xin hỏi: đối với giới sát và luật nhân quả chúng
con có phạm tội và có phải trả quả báo hay không?
Đáp: Căn cứ vào
giới bất sát cũng như luật nhân quả, thì việc làm của Phật tử đương nhiên là đã
phạm và phải trả quả. Tuy nhiên, vấn đề nặng nhẹ có khác. Nếu luận về tội, thì
dù cố ý hay vô tình, thì cũng giết những sinh vật khác, dù là sinh vật rất nhỏ
nhít như con kiến, con trùng v.v… Đã có giết, tất nhiên là đã thành tội. Song
có điều, ta cũng cần nên hiểu thêm, giới sát sanh mà Phật cấm, chủ yếu là Phật
cấm giết người. Vì mạng sống của con người quý giá hơn hết. Rồi từ đó cứ hạ thấp
dần xuống, như trâu, bò, ngựa, chó v.v… những sinh vật mà chúng nó có ân nghĩa
với loài người chúng ta, thì Phật dạy người phật tử nên mở rộng lòng thương
không nên cố ý giết hại chúng nó.
Đối với những loài sinh vật nhỏ hơn,
ta cố giữ được chừng nào, thì tốt chừng ấy. Luận cho cùng, thì thử hỏi trong đời
có mấy ai giữ trọn vẹn giới bất sát sanh nầy. Vì bảo vệ mạng sống, khi bịnh
chúng ta uống thuốc cũng đã giết chết biết bao vi trùng trong cơ thể chúng ta.
Cho nên, Phật khuyên loài người nên tôn trọng sinh mạng trên hết là loài người,
chỉ cần cả nhơn loại biết yêu thương và tôn trọng mạng sống con người lẫn nhau,
không nên ra tay sát hại nhau, giữ được ngần ấy, thì lo gì thế giới không hòa
bình. Nhưng ngặt gì nhơn loại không giữ được cái giới không giết người nầy, nên
nhơn loại luôn luôn sống trong khổ đau. Giết người là mạng sống lớn mà con người
còn không giữ được, thì nói chi đến những loài sinh vật nhỏ nhít
khác.
Đối với người Phật tử, Phật cấm chúng ta chẳng những không được
giết người mà còn phải thương yêu tất cả muôn loài vạn vật khác. Đó là thể hiện
lòng từ bi. Nhứt là tránh được quả báo oán thù.
Tóm lại, qua hành động
sát hại sinh vật của Phật tử như trong câu hỏi của Phật tử nêu ra, theo tôi, thì
y cứ luật nhân quả hễ có gây nhân dù là rất nhỏ, cũng đều có quả, không thể nào
tránh khỏi. Tuy nhiên, trong nhân quả đó, nó còn có nhiều yếu tố phụ thuộc khác
của cái nhân trong khi gây tạo, do đó, mà kết quả có nặng nhẹ sai khác nhau.
Trường hợp của Phật tử, thật ra, không phải tự ý Phật tử đi tìm nó để
giết hại. Việc làm của Phật tử là do quý thầy và đại chúng công cử, sai bảo, chớ
không phải Phật tử tự ý đứng ra làm việc đó. Nên, nếu có tội là tội chung, chớ
không phải chỉ riêng một mình Phật tử lãnh chịu. Thứ hai, là chủ tâm của Phật tử
làm là quét dọn chung quanh sân chùa cho được sạch sẽ, chớ Phật tử đâu có chủ
tâm tìm chúng để giết.
Như vậy, chúng bị chết, chẳng qua đó cũng là cái
nghiệp quả của chúng mà thôi. Chả lẽ vì sợ chúng chết, rồi mặc cho cỏ rác mọc um
tùm và tràn ngập cả sân chùa, cứ để vậy mà chịu sao? Nếu thế, thì tại sao có bài
kệ được đề cao việc quét dọn sân chùa:
Thường tảo già lam
địa
Thời thời phước huệ sanh
Tuy vô nhơn khách
chí
Diệc hữu Thánh nhơn hành.
Nghĩa
là:
Thường quét đất sân chùa
Phước huệ luôn luôn sanh trưởng
Tuy
không du khách đến viếng
Cũng có Thánh nhơn đi qua.
Như vậy, Phật tử
cũng đừng lo sợ, nếu có tội là tội chung chớ không phải một mình Phật tử. Vì
Phật tử làm là do đại chúng sai bảo vậy.
Hỏi: Trong phần nghi
thức tụng kinh Pháp Hoa, có bài kệ khen ngợi kinh, trong đó có 2
câu:
“Dù cho tạo tội
hơn núi cả
Chẳng nhọc Diệu
Pháp vài ba hàng”.
Xin hỏi:
Có phải người dù tạo tội to như núi Tu Di đi nữa, chỉ cần tụng vài hàng trong
kinh Pháp Hoa, thì tất cả tội chướng đều tiêu tan hết phải không?
Đáp: Xin chớ hiểu lầm ý
của bài kệ nói. Không có chuyện ngược đời như vậy được. Nếu như thế, thì tu hành
chi cho mệt sức. Trong khi sống, cứ tha hồ tạo tội, đến khi bệnh nặng chỉ cần
tụng vài ba hàng kinh Pháp Hoa là xong ngay, bao nhiêu tội chướng chất chồng đều
tiêu tan hết. Nếu hiểu như thế, thì chắc là cả thế gian nầy đại loạn mất. Cuộc
sống sẽ trở thành hỗn độn, không còn ai biết lo sợ nhân quả báo ứng gì cả.
Ý của hai câu đó, theo chỗ chúng tôi hiểu là như vầy: Đây là bài khen
ngợi kinh, mà chủ yếu của kinh Pháp Hoa là Phật dạy không ngoài bốn chữ: “Khai,
Thị, Ngộ, Nhập”. Bốn chữ nầy nhằm một mục đích chính mà Phật muốn chỉ bày cho
tất cả chúng sanh nhận ra và sống được với cái “Thể tánh thanh tịnh sáng suốt”
mà mỗi người đều sẵn có, trong kinh gọi là: “Phật tri kiến”. Nếu người nào nhận
ra và sống đúng trọn vẹn với thể tánh thanh tịnh bản nhiên sáng suốt nầy, thì dù
cho bao nhiêu tội lỗi đã có cũng đều tiêu tan hết. Lý do tại sao? Bởi vì tội
tánh vốn không.
Trong Chứng Đạo Ca Ngài Vĩnh Gia Huyền Giác nói: “Chứng
Thật tướng vô nhơn pháp, sát na diệt khước A tỳ nghiệp”. Hay “Vô minh thật tánh
tức Phật tánh, ảo hóa không thân, tức Pháp thân. Pháp thân giác liễu Vô Nhứt
Vật….” Khi chứng Thật tướng, tức là “Tướng Không” của muôn pháp, thì nhơn và
pháp sẽ không còn. Thật tướng là tên khác của Tri kiến Phật. Khi chưa chứng được
Thật tướng hay chưa chứng thật Tri kiến Phật, thì nhơn ngã bỉ thử, tức là mọi
vọng chấp đều có đủ. Nhưng khi chứng ngộ rồi, thì mọi thứ đều tan biến hết. Vì
vô minh nó không có thật thể. Dụ như bóng tối nó không có thật thể cố định. Như
trong một căn phòng, ban đêm tối đen như mực, bỗng có ánh sáng chiếu vào, tất
nhiên bóng tối kia không còn, nó tan biến một cách rất nhanh chóng. Dù bóng tối
đó trải qua hằng mấy trăm năm cũng thế.
Tại sao nó tan biến nhanh như
vậy? Tại vì nó không có thật thể cố định. Như vậy, bóng tối là dụ cho vô minh
hay tội lỗi, vì tội lỗi có ra là gốc từ vô minh, mà gốc không có thì làm gì cái
ngọn có? Như vậy, hai câu kệ trên ý nói: Khi chúng ta nhận được cái Diệu Pháp,
(tức tên khác của Phật tri kiến), và sống trọn vẹn với cái Diệu Pháp đó, thì
không cần phải nhọc công tụng đọc, dù chỉ là vài hàng thôi, thì bao nhiêu tội
lỗi cũng không còn. Ngược lại, dù chúng ta khổ công tụng không biết bao nhiêu
bộ, trải qua không biết bao nhiêu lần, rốt lại tội lỗi vẫn còn nguyên vẹn. Lý do
tại sao vậy? Tại vì chúng ta tụng đọc suông trên văn tự chữ nghĩa, hay tụng cho
có phước. Thế thôi! Chúng ta không nhận được ý kinh Phật dạy.
Tụng hết
năm nầy đến năm khác, nhìn lại, phiền não tham, sân, si vẫn không tiêu mòn chút
nào. Thử hỏi tụng đọc như vậy, thì làm sao tiêu tội cho được?! Muốn hết tội,
phải thấy Tánh (Diệu Pháp) và phải hằng sống với cái Tánh thể đó, thì tội gì
cũng không còn. Như mặt trời hiển hiện chiếu sáng, thì tất cả mây mù đều tan
biến hết. Điều quan trọng là làm sao cho mặt trời Trí Huệ hiển hiện…Chính đó mới
là điều quan trọng.
Hỏi: Mỗi lần nhập
chúng tu học, vì cơ thể già nua yếu đuối, nên dễ sanh bệnh. Cứ mỗi lần bệnh làm
phiền đến những người khác phải quan tâm lo lắng. Vậy xin hỏi: Như vậy, con có
mắc cái tội làm động chúng không? Và con có mất công đức tu học
không?
Đáp: Bệnh là một trong bốn nỗi khổ lớn của con người: sanh, già, bệnh,
chết. Đã là quy luật chung thì không ai tránh khỏi. Tuy nhiên, bệnh trạng nặng
nhẹ, còn tùy thuộc vào nghiệp lực của mỗi người mà có nặng nhẹ khác
nhau.
Trường hợp của Phật tử, không có gì là mang tội làm động chúng cả.
Tội động chúng là khi nào tới giờ ngủ nghỉ mà Phật tử không chịu nằm yên để ngủ,
hoặc vì ngủ không được, nên Phật tử đi đứng gây tiếng động làm ồn những người
khác không ngủ được, như thế, thì Phật tử mang tội làm động chúng. Vì trong thời
gian tu học, mọi người rất cần đến sức khỏe để hành trì giữ đúng theo thời khóa,
mà Phật tử không tôn trọng giờ giấc ngủ nghỉ của những người khác, như vậy, Phật
tử vừa phạm nội quy mà cũng vừa làm động chúng nữa. Đây là điều mà mọi người dự
tu trong những khóa tu ngắn hay dài hạn do chùa tổ chức, cần nên chú ý để tránh
những lỗi lầm nầy. Còn trường hợp của Phật tử có khác. Vì bệnh là ngoài ý muốn
của Phật tử.
Vả lại, trong tinh thần sống chung hòa hợp của một tập thể,
thì cần phải thể hiện tinh thần tương trợ cho nhau, nhứt là trong khi có một
người nào đó đau yếu bệnh hoạn. Nên việc những người khác giúp cho Phật tử, đó
là chuyện bình thường và rất tốt, không có gì là động chúng cả. Như vậy, hai
trường hợp khác nhau rất xa. Phật tử yên tâm không có gì là mang tội. Phật tử
cũng không có mất công đức tu học. Tuy nhiên, như trên chúng tôi có nói, bệnh là
nghiệp quả của mỗi người, nhứt là trong khi tu học mà Phật tử lại bị bệnh, như
vậy, thì nghiệp của mình hơi nặng. Phật tử nên thành tâm sám hối cho tiêu bớt
nghiệp. Nếu trong khi bệnh, nhưng mọi thời khóa tu học, Phật tử vẫn giữ đều đặn,
thì không có gì là mất công đức.
Ngược lại, nếu Phật tử vì bệnh mà không
theo đúng thời khóa cùng với đại chúng, thì đương nhiên, Phật tử sẽ bị thua
thiệt hơn người ta. Nhưng, nếu trong lúc bệnh nằm trong phòng không đi tụng niệm
được, mà Phật tử vẫn cố gắng nhiếp tâm niệm Phật, được như thế, thì không có gì
phải mất công đức cả. Mất công đức là khi nào, Phật tử khỏe mạnh, mà tìm cách
lẩn trốn thời khóa không đi tụng niệm cùng với đại chúng, đó mới là mất công
đức. Chẳng những thế, mà còn mang thêm tội thọ dụng của Đàn na thí chủ nữa. Vì
những người nầy, họ bỏ công sức ra lo nấu nướng cho mình ăn mà mình không lo tu
và thêm cái tội sống không hòa chúng. Trường hợp nầy, khi tu học cùng với đại
chúng, thì không nên có. Ngoài ra, Phật tử yên tâm không sao cả. Không ai chấp
nhứt những người thật sự bệnh hoạn như Phật tử đâu.
Hỏi: Trong bài phục
nguyện cũng như trong bài sám có câu: tình dữ vô tình giai cộng thành Phật đạo.
Hoặc tình dữ vô tình đồng viên chủng trí. Xin hỏi: ý nghĩa của hai câu nầy như
thế nào?
Đáp: Muốn hiểu ý nghĩa của hai câu nầy, trước hết, chúng ta
cần hiểu ý nghĩa của những từ ngữ: “Phật đạo và Chủng trí”. Phật đạo ở đây không
có nghĩa là chỉ cho Phật quả. Mà ta có thể hiểu là chỉ cho Tánh giác. Còn danh
từ “chủng trí” cũng là tên khác của Tánh giác mà thôi. Bởi trong kinh có nói đến
3 loại trí: 1. Nhứt thiết trí là trí của hàng Thanh Văn. 2. Đạo chủng trí là trí
của Bồ tát. 3. Nhứt thiết chủng trí là trí của Phật. Như vậy, chủng trí nói cho
đủ là “Nhứt thiết chủng trí”, tức cái trí biết tất cả chủng loại. Còn tình, nói
đủ là hữu tình, tức chỉ cho những loài có tri giác tình thức phân biệt. Còn vô
tình là những loài không có tri giác. Mà những loài không có tri giác, thì làm
sao biết tu hành thành Phật được.
Cho nên, nếu chúng ta hiểu hai chữ Phật
đạo là Phật quả, thì không làm sao giải nghĩa được hai câu trên. Còn nếu chúng
ta hiểu Phật đạo hay chủng trí ở nơi cái Tánh thể, thì mới giải thích được. Lý
do tại sao? Bởi vì tất cả các loài hữu tình hay vô tình đều có chung một Tánh
thể. Vạn vật đồng nhứt thể. Dụ như muôn ngàn lượn sóng to nhỏ có khác nhau,
nhưng tất cả đều từ nước mà có. Sóng tuy có khác mà nước thì chỉ có một. Nước là
thể mà sóng là tướng và dụng của nước vậy.
Tánh thể nầy là tánh thanh
tịnh bản nhiên của muôn vật. Ở nơi loài hữu tình, thì gọi nó là Phật tánh; ở nơi
loài vô tình, thì gọi nó là Pháp tánh. Như vậy, giữa Phật tánh và Pháp tánh,
danh từ tuy khác, nhưng Thể không hai. Tuy nhiên, nếu ta nói một cũng không
đúng. Tại sao? Vì tánh thể nầy khi tác dụng ở nơi loài hữu tình, tiêu biểu như
loài người, thì gọi đó là trí huệ và dùng trí huệ nầy nhận ra được tánh thể của
muôn loài, thì gọi đó là pháp tánh. Người nào nhận ra và sống trọn vẹn với cái
tánh thể đó, thì gọi người đó là Phật hay bậc Đại giác. Như vậy là hai mà không
hai, (trong kinh thường gọi là Pháp môn bất nhị), vì giác ngộ việc đó nên thành
phật thì Phật cũng không ngoài Pháp tánh. Nói chung, hữu tình và vô tình đều có
chung một bản thể sáng suốt thanh tịnh, nên nói là đồng thành Phật đạo hay đồng
viên chủng trí cũng thế.
Hỏi: Kiến hoặc, tư
hoặc và trần sa hoặc, ba thứ hoặc nầy giống nhau và khác nhau như thế
nào?
Đáp: Ba thứ nầy
có điểm giống nhau và cũng có những điểm khác nhau. Giống nhau ở chỗ, ba thứ nầy
đều là vô minh phiền não, đều có tác dụng làm cho chúng sanh mãi bị trầm luân
trong sanh tử. Tuy nhiên, chúng cũng có những điểm khác nhau. Trước hết xin nói
sự khác biệt giữa kiến hoặc và tư hoặc, rồi sau mới nói đến khác biệt với trần
sa hoặc.
Kiến hoặc là gì? Kiến hoặc là những thứ mê lầm thuộc về Lý.
Chúng gồm có 5 thứ: thân kiến, biên kiến, tà kiến, kiến thủ và giới cấm thủ. Còn
tư hoặc là những thứ mê lầm thuộc về Sự. Chúng cũng gồm có 5 thứ: tham, sân, si,
mạn, nghi. Gọi chung 10 thứ nầy là 10 thứ căn bản phiền não. Vì chúng là cội gốc
gây ra bao nhiêu sự khổ đau mà con người luôn luôn hứng chịu. Mười thứ nầy, tuy
cũng là gốc phiền não, nhưng cường độ sâu, cạn, hay mạnh, yếu của chúng có khác
nhau. Nhà Duy thức chia chúng ra làm hai loại: “ngũ độn sử và ngũ lợi
sử”.
Đối với 5 món: tham, sân, si, mạn, nghi, hành tướng của chúng rất
sâu và mạnh, nên gọi chúng là độn (chậm lụt và khó trừ). Ngược lại, 5 thứ kia:
thân kiến, biên kiến… thì hành tướng của chúng yếu hơn, nên gọi là lợi sử. Sử có
nghĩa là sai khiến, chúng sai khiến người ta phải làm theo mệnh lệnh của chúng.
Đối với 5 thứ trước, hành giả phải tu đến địa vị “Tu đạo” mới trừ được. Còn 5
món sau, vì tánh cách mê lý cạn cợt, nên hành giả tu hành đến địa vị “Kiến đạo”
(thấy rõ chân lý và tin chắc lý nhân quả) thì trừ được chúng.
Nói chung,
hai thứ nầy, khác nhau về cường độ mạnh yếu và hành tướng chậm lụt cũng như nhạy
bén có sai khác. Và khi đoạn trừ, cũng có sự khác nhau ở địa vị tu chứng. Đó là
đại khái sự khác nhau giữa Kiến, Tư hoặc là như thế.
Còn đối với trần sa
hoặc thì có khác. Bởi trần sa hoặc không phải là thứ phiền não của các vị A la
hán. Vì những vị A la hán đã đoạn hết kiến, Tư hoặc, nhưng các ngài bị chướng
ngại ở nơi hoặc lậu (phiền não) của chúng sanh. Nghĩa là các ngài thấy phiền não
của chúng sanh nhiều như là cát bụi (trần sa). Do đó, các ngài không dám ra độ
sanh như các vị Bồ tát. Như vậy, sự khác biệt giữa kiến, Tư hoặc và trần sa hoặc
là như thế.
Hỏi: Trong kinh nói:
quy y Phật bất đọa địa ngục, quy y Pháp bất đọa ngạ quỷ, quy y Tăng bất đọa bàng
sanh. Người Phật tử sau khi quy y, không còn đọa vào các loài nầy nữa, tức không
đọa vào Tam đồ, tất nhiên sẽ sanh vào cảnh giới an vui. Như thế, thì tại sao
người Phật tử sau khi chết lại thỉnh chư Tăng Ni tụng kinh cầu siêu? Như vậy có
chống trái hay không?
Đáp: Thật ra không có gì là chống trái. Trong kinh nói về Tam quy
y ở trên, không có nghĩa là ám chỉ cho con người sau khi chết mới không bị sa
đọa. Nếu chúng ta hiểu như thế, mới là chống trái lại với ý kinh. Kinh nói rất
rõ. Muốn hiểu được nghĩa lý trên, chúng ta cần phải hiểu rõ về ý nghĩa của từng
câu một.
Tại sao quy y Phật không đọa vào địa ngục? Quy y có nghĩa là trở
về nương tựa, còn Phật nghĩa là giác ngộ, sáng suốt. Như vậy quy y Phật, nghĩa
là trở về nương tựa với một bậc giác ngộ sáng suốt. Qua câu nầy, nếu chúng ta
chỉ hiểu đơn sơ ở phần sự tướng bề ngoài, thì không đúng. Bởi vì, hiện tại có
lắm người sau khi quy y Tam Bảo rồi , họ tạo nghiệp bất thiện như cướp của, giết
người v.v… Họ lại bị bắt nhốt trong lao ngục. Như thế, thì ta thử hỏi tại sao họ
đã quy y Tam Bảo rồi mà họ còn phải bị đọa như vậy? Đó có phải là vì họ chỉ quy
y suông, chớ họ không có gìn giữ giới cấm hay thật sự trở về với Phật.
Một người, sau khi quy y Tam Bảo, chỉ cần biết nương theo Tam Bảo thế
gian, rồi cố gắng làm lành theo những lời Phật dạy, thì làm gì có xảy ra cảnh tù
tội giam cầm. Đó là nói quy y theo nghĩa cạn cợt hình tướng mà còn được lợi ích
như thế, hà tất gì quy y ở nơi phần lý tánh. Cho nên, người phật tử khi quy y
phải biết quy y có hai phần: “Sự quy y và Lý quy y”.
Ý nghĩa trong kinh
nói về Tam quy ở trên, không phải nói về Sự quy y mà nói về Lý quy y. Lý quy y
là sao? Lý là lý thể, tức chỉ cho phần tánh giác sáng suốt của mỗi người sẵn có.
Mỗi người chỉ cần trở về nương tựa (đấy là một cách nói theo ngôn ngữ) với tánh
giác sáng suốt, thì làm gì có rơi vào địa ngục. Bởi địa ngục là nơi tối tăm
(nghĩa đen) nghĩa bóng là chỉ cho tâm hồn của chúng ta bị phiền não cấu nhiễm
nổi lên làm bức bách khó chịu. Đó là trạng thái bị rơi vào địa ngục. Hễ có tối
tăm, thì không có sáng suốt, hay ngược lại cũng thế.
Còn ngạ quỷ là loài
quỷ đói, do nhân bỏn xẻn mà có ra cái quả đau khổ đó. Nếu một người đã thật sự
trở về nương tựa với chánh pháp, với tánh thể bình đẳng, trải rộng lòng từ bi
thương yêu muôn loài, không có tâm keo kiết bỏn xẻn, luôn giúp đỡ cho mọi người
thoát khổ được vui. Người có tâm như thế, thì làm gì đọa vào loài quỷ
đói.
Còn súc sanh cũng thế, một tâm hồn si mê u tối, sống không có luân
thường đạo đức, không phân biệt phải trái, tốt xấu, hành động càn bướng, đó là
nếp sống của loài súc sanh. Ngược lại, người có tâm hồn sáng suốt thanh tịnh,
sống theo chân lý, không chút tà tâm sái quấy, thì làm gì đọa vào súc sanh hay
bàng sanh.
Nói tóm lại, người Phật tử đã thật sự quy y Tam bảo cả Sự lẫn
Lý, đúng theo ý nghĩa quy y, thì bảo đảm người đó hiện đời sẽ không đọa vào tam
đồ ác đạo như đã nói ở trên. Đã thế, thì sau khi họ chết, có cầu siêu hay không,
không thành vấn đề. Vì hiện đời họ đã siêu rồi, tức họ đã vượt qua cảnh giới khổ
đau rồi. Nhân đã như thế, thì quả cũng phải như thế. Không thể quả trái ngược
lại nhân. Cho nên việc cầu siêu đó, chẳng qua làm theo lệ thường tình mà thôi.
Như vậy, có cũng tốt mà không có cũng chẳng sao. Hiểu như vậy, thì không có gì
là chống trái cả.
Hỏi: Việc tụng kinh
cầu siêu cho người chết có thật sự siêu hay không?
Đáp: Vấn đề nầy, thú thật chúng tôi không thể nào trả lời
một cách quả quyết dứt khoát được. Bởi không thấy, không biết, thì làm sao dám
nói quả quyết. Tuy nhiên, theo chỗ học hiểu của chúng tôi, thì người Phật tử hay
không phải Phật tử, tốt hơn hết là mình nên cầu siêu cho chính mình lúc còn
sống.
Cầu siêu lúc còn sống là sao? Bởi vì hai chữ cầu siêu, nó có nghĩa
là mong mỏi vượt qua mọi khổ đau. Nhưng nếu chúng ta chỉ cầu siêu suông bằng
cách nói như thế, thì ngàn đời cũng không thể nào vượt qua khỏi khổ đau được.
Muốn vượt qua khỏi khổ đau, thì chúng ta cần phải tu. Nghĩa là chúng ta cần phải
làm lành lánh dữ. Điều gì xấu ác, không lợi cho bản thân và tha nhân, thì chúng
ta quyết định không làm. Như người Phật tử, sau khi quy y thọ ngũ giới rồi,
quyết tâm gìn giữ không phạm, được thế, thì hiện đời đã siêu rồi, còn nói gì đến
đời sau. Ngược lại, điều xấu ác luôn làm, thì làm sao tránh khỏi quả báo khổ
đau.
Có người vì quá tham lam, sân hận, gây ra thảm cảnh cướp của giết
người. Có người vì nghiện ngập cờ bạc, rượu chè say sưa, hút xách, không kiềm
chế được tánh xấu, nên đã gây ra nhiều tội phạm, bị pháp luật trừng trị hình
phạt tương xứng theo nhân mà họ đã gây tạo, như bị đánh đập tra khảo tù đày v.v…
Như thế, thì làm sao chúng ta có thể cầu cho người đó siêu được? Không
thể người nầy ăn, người khác lại no, hay người nầy học, người kia biết chữ. Làm
gì có chuyện ngược đời như thế. Như vậy là phản với luật nhân quả. Cũng thế, khi
một người tạo tội đã bị giam cầm hình phạt, thì ta không thể tối ngày cầu nguyện
nói rằng: Xin cho người đó hết tội! xin cho người đó hết tội!
Thử hỏi
cầu nguyện như thế người đó có hết tội hay không? Hay là chính do người đó phải
cải hối ăn năn qua những hành động mình đã làm và phải thể hiện những hành động
cụ thể cho người có trách nhiệm trông coi mình, biết mình có thật tâm cải thiện.
Chừng đó, người ta mới xét đến mà ân xá hoặc tha cho.
Còn những lời cầu
nguyện van xin kia, chỉ có tánh cách giúp cho tội nhân kia cảm động mà hồi tâm
cải ác tùng thiện, cải tà quy chánh, chuyển đổi ở nơi tâm thức và hành động. Chớ
nó không có một thần lực nào cứu vớt người đó khỏi tội được. Như vậy, việc cầu
siêu chỉ là một trợ duyên thôi. Tất cả đều tùy thuộc vào đương sự. Khổ vui chính
do người đó tự quyết định lấy.
Hiểu theo ý nghĩa cầu siêu như thế, thì
người Phật tử không còn ỷ lại vào chư Tăng, Ni tụng kinh cầu siêu nữa. Bởi thực
tế, thì chư Tăng Ni cũng phải cầu siêu cho chính họ. Và khi tụng thì tụng theo
xưa bày nay làm, chớ thật sự không có một vị Tăng Ni nào dám quả quyết là siêu
hay không siêu. Vì có thấy biết đâu mà dám nói càn. Thực tế là như thế.
Tóm lại, tự mỗi người phải lo tu, đừng bao giờ ỷ lại vào bất cứ ai kể cả
Phật, Bồ tát, vì các Ngài cũng không thể cứu vớt chúng ta, bằng thần lực hay đưa
tay cứu khổ. Các Ngài chỉ cứu khổ cho chúng sanh bằng cách chỉ dạy qua những
lời được kết tập trong kinh điển. Nếu chúng ta y cứ vào đó mà hành trì, thì đó
là chính ta tự cứu lấy ta vậy. Và như thế mới là thượng sách và mới đúng với ý
nghĩa cầu siêu. Bằng ngược lại, thì chúng ta sẽ chuốc khổ dài dài đi mãi trong
vòng luân hồi khổ đau bất tận. Kính mong mọi người nên tự xét lấy!
Hỏi: Xin giản biệt
giữa tu phước và tu huệ khác nhau như thế nào?
Đáp: Tu phước và tu huệ khác nhau trên ý niệm và trên kết quả. Thế nào
khác nhau trên ý niệm? Như chúng ta thấy một người nghèo khổ, động lòng từ bi,
chúng ta tìm cách giúp đỡ cho họ. Từ đó, chúng ta bố thí cho họ tiền bạc, của
cải v.v… để cho họ được no cơm ấm áo. Đó là chúng ta khởi niệm tu
phước.
Còn khởi niệm tu huệ là sao? Khi chúng ta khởi nghĩ đi đến chùa để
học hỏi nghe giáo lý Phật dạy, liền đó chúng ta đi ngay. Và khi đến chùa, chúng
ta vào lớp học để nghe quý thầy giảng dạy. Trong khi nghe, chúng ta chăm chú
nghe từng lời nói của vị giảng sư rồi chúng ta suy nghĩ thật chính chắn qua từng
lời nói, sau đó, chúng ta đem ra ứng dụng thật hành để được lợi lạc cho bản thân
ta.
Như vậy, giữa hai ý niệm khác nhau, một đàng là chúng ta khởi niệm
muốn giúp đỡ người khác để chúng ta được có phước. Ngược lại, đằng nầy, chúng ta
khởi nghĩ học hỏi chánh pháp để trau dồi trí năng của chúng ta, ngày thêm được
sáng suốt hơn. Như vậy, rõ ràng có sự khác biệt ở nơi cái nhân của Ý Niệm. Và
khi kết quả cũng có khác nhau. Kết quả của sự bố thí, cúng dường, thì chúng ta
hưởng được phước báo giàu sang, an vui. Ngược lại, kết quả của sự trau dồi học
hỏi qua 3 phương pháp: “Văn huệ, Tư huệ và Tu huệ”, kết quả, chúng ta sẽ được
trí huệ sáng suốt.
Như thế, tu phước, thì xuất phát từ lòng từ bi, vì có
thương người, thương vật nên chúng ta mới thi ân giúp đỡ. Còn tu huệ, thì xuất
phát từ lý trí, biện biệt được lẽ chánh tà chân ngụy. Trong kinh Phật dạy, người
Phật tử cần phải gia công tu tập cả hai: “Phước trí lưỡng toàn mới phương tác
Phật”. Chúng ta không nên chỉ tu nghiêng một bên. Nếu chỉ đặt nặng một bên, thì
chẳng những không đạt được kết quả tốt đẹp lợi lạc, mà còn gây ra nhiều tai hại
nữa. Nếu chỉ có từ bi mà không có trí huệ đi kèm, thì từ bi đó dễ trở thành mù
quáng. Ngược lại, chỉ có biết tu huệ không thôi, thì đó là trí huệ khô, chẳng
làm lợi lạc cho ai. Vì vậy, người Phật tử cần phải tu hết cả hai vậy.
Hỏi: Vô thường có
phải là chủ thuyết bi quan không?
Đáp: Vô thường không phải là chủ thuyết bi quan, mà trái lại, nó là
chủ thuyết lạc quan. Lý do tại sao? Bởi vì, mọi vật trên đời nầy, nhờ vô thường
nên chúng luôn luôn đổi mới. Như dòng nước trôi chảy không bao giờ đứng yên một
chỗ. Nhờ có sự thay đổi đó, mà xã hội luôn luôn tiến bộ. Nếu mọi vật đứng yên
một chỗ, thì cuộc đời nầy vô cùng buồn tẻ, và có lẽ, cũng không còn ai tha thiết
muốn sống.
Như chúng ta trồng một cây kiểng, nếu cây kiểng đó, tự nó không có sự biến
chuyển thay đổi, thì làm gì nó trở nên tươi đẹp. Dù chúng ta có ra công chăm sóc
tới đâu đi nữa, thì nó cũng không bao giờ thay đổi. Cũng như dòng nước trong
xanh tươi mát kia, sở dĩ nó được trong xanh như thế, là vì nhờ nó luôn luôn trôi
chảy không dừng, nó cuốn phăng đi những thứ rác rến, nhơ nhớp, không bị tù hảm
thành dơ bẩn. Một thí dụ khác, như khi chúng ta dùng thực phẩm hằng ngày, nếu
không vô thường, thì thực phẩm kia làm sao tiêu hóa. Nếu không tiêu hóa, vật nào
nguyên vẹn vật đó, thì làm sao chúng ta có thể sống được?
Tóm lại, sự đời nhờ vô thường mà cuộc sống luôn luôn đổi mới, thú vị, yêu
đời. Hiểu như thế, thì chúng ta nên khéo lợi dụng sự vô thường đó mà luôn luôn
đổi mới thân tâm của chúng ta theo chiều hướng tốt đẹp để làm thăng hoa trong
cuộc sống. Đó là một thái độ khôn ngoan và luôn luôn lạc quan, yêu đời vui sống.
Như vậy, theo lý vô thường, tự nó sẽ đào thải tất cả những gì lỗi thời không phù
hợp thích nghi với nền văn minh tiến bộ của nhơn loại mỗi ngày mỗi đổi mới.
Hỏi: Trong lúc thảo
luận, nói chuyện về việc tụng kinh, có một bà bạn nói với con: Tụng kinh gì cũng
được, nhưng đừng có tụng kinh Kim Cang Bát Nhã. Con hỏi tại sao? Bà ta không
giải đáp được. Vậy xin hỏi lý do tại sao như vậy?
Đáp: Đây là một huyền thoại đã có từ lâu. Huyền thoại nầy không
biết xuất phát từ đâu và thời nào. Một huyền thoại vô căn cứ, không lý lẽ, người
không hiểu cứ thế mà nói chuyền nhau, gây ra lắm điều tai hại.
Trường
hợp như bà Phật tử kia, chỉ nói như thế mà không biết lý do vì sao. Vì truyền
thuyết cho rằng, tụng kinh Kim Cang Bát Nhã gia đình sẽ xào xáo lộn xộn, bất an,
vườn tượt khô héo, mọi việc đều xui xẻo không may. Thử hỏi Kinh Kim Cang Bát Nhã
do ai nói? Hẳn ai cũng biết kinh nầy là do Phật nói. Đã do Phật nói, thì tại sao
người tụng đọc kinh nầy lại bị những hiện tượng bất an nói trên? Nói như thế,
chả lẽ Phật lại lường gạt gài bẫy chúng sanh hay sao? Nếu có ác tâm như thế, thì
sao gọi là Phật? Những ai bịa đặt nói thế, nếu không phải là có ác ý qua hệ tư
tưởng thâm sâu của kinh nầy, thì quả thật họ không hiểu gì về diệu lý thâm ý của
kinh cả. Nếu vì không hiểu, thì nên tìm hiểu. Bằng chưa hiểu thì không nên nói
càn nói bướng như thế. Kẻ nói như thế khác nào hù dọa người ta, thật là tội lỗi!
Toàn bộ hệ thống kinh Bát Nhã gồm có sáu trăm quyển, mà kinh Kim Cang
Bát Nhã chỉ là kết tinh của toàn bộ 600 quyển đó thôi. Đây là một hệ tư tưởng
siêu việt, nhằm phá vỡ tất cả mọi vọng chấp của chúng sanh. “Phá vọng hiển chơn”
là mục đích chính của kinh nầy. Một hệ tư tưởng cao siêu như thế, mà họ dám cho
rằng người tụng đọc kinh nầy thì gia đình lại bị xáo trộn bất an.
Vì
trong phạm vi trả lời câu hỏi, nên ở đây, chúng tôi không muốn luận giải đi sâu
vào thâm ý của kinh. Chúng tôi chỉ xin trả lời một cách ngắn gọn vắn tắt và dứt
khoát rằng: “Nội dung toàn Kinh Kim Cang Bát Nhã, đức Phật chỉ nhắm vào một mục
đích duy nhất là phá chấp bốn tướng: “Ngã, Nhơn, Chúng sanh và Thọ giả”. Nói gọn
hơn là phá hai thứ vọng chấp mà tất cả chúng sanh chấp chặt nặng nhứt, đó là
“Ngã chấp và Pháp chấp”. Người nào không còn hai thứ vọng chấp nầy, thì họ sẽ
đạt được cứu cánh giải thoát, tức đồng với Phật quả vậy.
Ý kinh thậm thâm vi
diệu như thế, nhưng tiếc vì người ta không hiểu, nên mới có vọng truyền sai lầm
như vậy. Than ôi! Quả thật họ là kẻ mù lòa đi trong đêm tối! Thật là đáng thương
xót biết bao! Người Phật tử không nên tin tưởng một điều gì mà không được sự
kiểm chứng của trí huệ. Phải vận dụng trí huệ soi sáng cho thật cặn kẽ vấn đề
trước khi đặt định niềm tin. Có thế, mới không bị sai lầm và niềm tin của chúng
ta mới thật sự là chánh tín.
Hỏi: A Tu La là gì?
Có mấy loại A Tu La? Và thân hình của chúng ra sao?
Đáp: A Tu La tiếng Phạn là Asura. A Tu La có nhiều tên gọi khác nhau:
A tác la, A tô la, A tố la, A tố lạc, A tu luân. Trong Kinh thường nêu ra ba
loại A Tu La: 1/ A Tu La thiên đạo. 2/ A Tu La quỉ đạo. 3/ A Tu La súc
đạo.
Theo Từ Điển Phật Học Huệ Quang, quyển 1, trang 84 giải thích: “A Tu
La là 1 trong 6 đường, 1 trong 8 bộ chúng, 1 trong 10 giới, một trong những vị
thần xưa nhất ở Ấn Độ.
Một loại quỷ thần hiếu chiến, thường bị coi là ác
thần và thường tranh đấu với trời Đế Thích không ngừng nên có danh từ A Tu La
trường, A Tu La chiến v.v…
Theo phẩm A Tu La Luân trong Kinh Tăng Nhất A
Hàm 3 : Thân hình của A Tu La cao 84.000 do tuần, miệng rộng mỗi bề 1.000 do
tuần. Còn phẩm A tu La Luân trong Kinh Trường A Hàm 20, phẩm A tu luân trong
Kinh Đại Lâu Thán 2. Kinh Khởi Thế Nhân Bản 5 v.v…đều ghi rõ chỗ ở và sự tích
của A Tu La.
Về nghiệp nhân của A tu la, các Kinh thường nêu ra 3 thứ
nhân làm cho chúng sanh sanh trong loại nầy: Sân, mạn, nghi.
Theo Kinh
Phật Vị Thủ Ca Trưởng Giả Thuyết Nghiệp Báo Sai Biệt thì liệt kê ra 10 thứ nhân
làm cho chúng sanh sanh trong loài A tu la.
1.Thân làm việc ác nhỏ. 2.
Miệng nói lời ác nhỏ. 3. Ý nghĩ điều ác nhỏ. 4. Khởi tâm kiêu mạn. 5. Khởi tâm
ngã mạn. 6. Khởi tâm tăng thượng mạn. 7. Khởi tâm đại mạn. 8. Khởi tâm tà mạn.
9. Khởi tâm mạn mạn. 10. Hướng về các căn lành.
Hình tượng của A tu la có
nhiều thuyết khác nhau. Có chỗ cho rằng: A tu la có 9 đầu, 1000 mắt, miệng phun
lửa, có 990 tay, 6 chân, thân to gấp 4 lần núi Tu di. Có chỗ cho rằng: A tu la
có 1000 đầu, 2000 tay; 10.000 đầu, 20.000 tay; 3 đầu, 6 tay. Có chỗ cho rằng: A
tu la có 3 mặt màu xanh đen, giận dữ, lõa hình và có 6 cánh tay.
Hỏi: Đọc trong Kinh
có chỗ nói: Khi đức Phật Thích Ca ra đời có 6 thứ chấn động. Con không hiểu 6
thứ chấn động nầy là gì? Và nếu như khi Phật ra đời mà cả đại địa đều chấn động
như thế, thì cả nhơn loại làm sao mà sống sót? Như thế, thì lòng từ bi của Phật
ra sao?
Đáp: Sáu tướng chấn động trong chữ Hán gọi là Lục chủng chấn
động. Nói về sáu thứ chấn động nầy, trong Kinh có nhiều chỗ nói khác nhau. Trong
Từ Điển Phật Học Huệ Quang có dẫn ra 3 kinh nói về 6 thứ chấn động
nầy.
Kinh Đại Phẩm Bát Nhã 1 nói rằng: sự chấn động của mặt đất tùy theo
phương hướng mà có 6 tướng: Đông trồi Tây sụt, Tây trồi Đông sụt, Nam trồi Bắc
sụt, Bắc trồi, Nam sụt, Bên trồi Giữa sụt và Giữa trồi Bên sụt.
Theo Kinh
Hoa Nghiêm 16 ( bản tân dịch ) Kinh Quảng Bác Nghiêm Tịnh Bất Thoái Chuyển Luân
1 v.v… nói rằng: 6 tướng chấn động là: Động, Khởi, Dũng, Chấn, Hống và Kích.
Động là lay động không yên, Khởi là từ thấp dần dần lên cao, Dũng là bỗng nhiên
vọt lên, 3 thứ nầy chỉ cho hình thức địa chấn. Chấn là phát ra tiếng động ầm ỉ,
Hống là tiếng rống mạnh của loài thú, Kích là phát ra tiếng dội ầm ầm, 3 thứ nầy
chỉ cho âm thanh địa chấn.
Theo Kinh Đại Phương Quảng Đại Trang Nghiêm
thì cho rằng, 6 tướng chấn động là: 1. Diêu động, Cực diêu động, Biến diêu động;
2. Khấu kích, Cực khấu kích, biến khấu kích. 3. Di chuyển, cực di chuyển, biến
di chuyển. 4. Dũng phú, cực dũng phú, biến dũng phú. 5. Xuất thinh, cực xuất
thinh, biến xuất thinh. 6. Bên trồi giữa sụt, giữa trồi bên sụt, Đông trồi tây
sụt…
Trên đây là chúng tôi y cứ vào trong các kinh nêu ra về 6 thứ chấn
động. Tuy nhiên, qua câu hỏi của Phật tử là khi Phật ra đời mà cả đại địa đều
chấn động (động đất) như thế, thì cả nhơn loại làm sao sống sót? Về điểm nầy,
theo ngu ý của tôi, thì sự chấn động đó không phải nói về sự chấn động ở bên
ngoài. Vì phần nhiều trong các kinh điển Đại thừa thường hay nêu ra nhiều ẩn dụ.
Khi đọc kinh mà ta không hiểu được điều nầy, có đôi khi ta lại lầm nhận ý kinh.
Chẳng hạn như trong Kinh Pháp Hoa có một phẩm gọi là “Tùng Địa Dõng Xuất”. Nghĩa
là nói rằng, các vị Bồ tát từ lòng đất vọt lên v.v… Hay phẩm « Hiện Bảo Tháp »
chẳng hạn. Đây là ý tại ngôn ngoại. Nếu chúng ta chỉ một bề y cứ vào phần sự
tướng tiêu biểu đó mà hiểu, thì đôi khi oan cho ba đời chư Phật.
Cho nên
khi nghiên cứu kinh điển của Phật giáo, ta phải lưu ý điều nầy. Nếu không, thì
sẽ hiểu lầm nơi ý kinh, nói rõ ra là ta không hiểu thâm ý lời Phật dạy và như
thế thì thật là đắc tội. Ở đây cũng thế. Trong kinh nêu ra 6 thứ chấn động đó,
theo tôi, thì không phải là nói đất bên ngoài chấn động. Nếu nói thế, thì làm
sao chúng ta có thể giải thích được. Nói đại địa chấn động đây, đó là một ẩn
dụ.
Trong Kinh thường nói, bản tâm của chúng ta giống như là đất. Cho
nên có một quyển kinh có tên là Tâm Địa Quán. Còn nói 6 thứ chấn động đó là ý
nói ở nơi 6 căn. Vì tâm ta, khi tác động vào căn nào, thì có sự chấn động ở căn
đó. Như tác động vào mắt, thì mắt thấy rõ; khi tác động vào tai, thì tai nghe rõ
âm thinh v.v…. Các căn kia cũng như thế. Tâm ta thí như một dòng điện, tùy theo
các bộ phận mà dòng điện vào, tất nhiên phát ra công dụng. Phật ra đời là nói
khi tâm ta được giác ngộ bừng sáng. Khi bản tâm đã hoàn toàn giác ngộ, thì 6 căn
trở nên một chấn động rất lớn. Bấy giờ chính 6 căn đó sẽ trở thành 6 lực dụng
thần thông.
Ngược lại, nếu ta hiểu theo sự chấn động như động đất bên
ngoài, thì như thế, rất là tai hại cho nhơn loại. Chả lẽ Phật ra đời làm cho
nhơn loại phải chịu đau khổ như thế sao?! Thật là phi lý. Phật ra đời với mục
đích là cứu độ chúng sinh, cho chúng sinh hết khổ được vui. Đằng nầy vui đâu
chưa thấy mà thấy đau khổ trước mắt. Tất cả đều bị hủy hoại chôn vùi. Có trận
động đất nào mà không gây ra cảnh chết chóc tang thương, nhà tan cửa nát? Hiện
trạng nầy cả nhơn loại đã và đang kinh hoàng lo sợ.
Ra đời gây ra cảnh
tang thương thống khổ cho nhơn loại như thế, thì thử hỏi Phật ra đời có ích lợi
gì? Điều nầy, quả thật là trái ngược với lòng từ bi của Phật. Hiểu theo nghĩa
chấn động bên ngoài, thì thật là không có lý lẽ và rất tai hại cho Phật giáo.
Nói lên điều nầy, cũng chỉ là sự nhận hiểu nông cạn của chúng tôi mà thôi. Dĩ
nhiên, mỗi người sẽ có những nhận định hiểu biết khác nhau. Tuy nhiên, sự nhận
định nào cũng phải dựa trên thực tế và hợp với chân lý mà xét đoán luận giải.
Hỏi: Mỗi khi chùa có
lễ lớn, con thường thấy chư Tăng Ni hay đánh chuông trống bát nhã. Con không
hiểu đánh chuông trống bát nhã có ý nghĩa gì? Kính xin Thầy hoan hỷ giải đáp
cho con.
Đáp: Trong nhà Phật, mỗi một phật cụ đều có một ý nghĩa đặc
biệt. Tiếng trống hay tiếng chuông trong thiền môn khi đánh lên đều ngầm có ý là
cảnh tỉnh mọi người nên thức tỉnh tu hành. Mỗi thứ khi sử dụng, đều có pháp thức
riêng.
Chuông trống bát nhã rất quan trọng trong thiền môn. Chuông trống
bát nhã thường đánh lên vào những buổi lễ pháp sự đặc biệt, như thuyết pháp,
truyền giới, Sám hối v.v…Và mỗi khi đánh lên ngầm ý thỉnh Phật thượng đường
chứng minh. Đồng thời cung nghinh chư Tôn Đức và cũng để cho mọi người chú ý
nhiếp tâm trở về với chánh niệm. Cụ thể là giờ hành lễ quan trọng.
Về
cách thức đánh chuông trống bát nhã cho đúng, người đánh cần phải y cứ vào bài
kệ:
Bát nhã hội ( 3 lần )
Thỉnh Phật thượng đường
Đại chúng đồng
văn Bát nhã âm
Phổ nguyện pháp giới đẳng hữu tình
Nhập Bát nhã ba la mật
môn ( 3 lần )
Muốn đánh chuông trống bát nhã cho đúng theo bài kệ trên,
thì người học cần phải học trực tiếp với những vị đã biết qua. Trống bát nhã,
thường chỉ có chư Tăng Ni trong chùa sử dụng thôi. Phật tử tại gia muốn học
đánh, cần phải đến chùa nhờ chư Tăng Ni chỉ dạy.
Về ý nghĩa, ngoài âm
vang của tiếng trống cảnh tỉnh khách trần ra, nó còn nói lên một ý nghĩa đặc thù
siêu việt. Mục đích là nhằm nhắc nhở mọi người cần phải trang bị cho mình có đầy
đủ trí huệ sáng suốt. Vì trí huệ rất là quan trọng. Dù hành giả tu bất cứ pháp
môn nào, mà thiếu trí huệ chỉ đạo, thì coi như sự tu hành không có kết quả tốt
đẹp. Nếu không có trí huệ sáng suốt để biện biệt chánh tà, chân ngụy, thì trong
khi ứng dụng tu hành, chúng ta dễ bị sai lệch và đi vào con đường tà ngoại.
Vì Bát nhã quan trọng như thế, nên chư Tổ mượn hình thức cái trống, để
khi đánh lên nhằm thức nhắc mọi người tăng cũng như tục phải luôn nhớ đến cái
trí Bát nhã sẵn có ở nơi chính mình. Trí Bát nhã nầy, còn gọi là Vô sư trí.
Nhưng muốn nhận ra cái Vô sư trí nầy, hành giả cần phải nương cái trí hữu sư,
tức cái trí do học hỏi ở nơi thầy bạn mà có được.
Sự thức nhắc cho chúng
ta nhớ lại cái bản tâm sẵn có, trong nhà Phật có nêu ra rất nhiều phương tiện
hình thức. Ở mức độ thấp hơn, khi nghe âm thanh của những pháp khí đó, như
trống, chuông, mõ v.v… thì người nghe chóng hồi tâm thức tỉnh để gắng lo tu
niệm. Phải hết lòng siêng năng làm lành lánh dữ, không nên gây tạo những nghiệp
ác mà phải chuốc lấy quả khổ đau. Cho nên, khi chúng ta đến chùa mỗi khi nghe
những âm thanh của những thứ nói trên, thì lập tức chúng ta hãy trở về với chánh
niệm. Hay nói rõ hơn là phải luôn thắp sáng ngọn đuốc chánh niệm. Muốn có trí
huệ, tất nhiên người Phật tử cần phải học hỏi trau dồi qua 3 môn học Văn, Tư,
Tu. Đó là ba món huệ học tối thiết yếu mà người Phật tử cần phải lưu tâm nỗ lực
nghiên tầm. Có thế, thì mới xứng đáng là người Phật tử chơn chánh học Phật.
Hỏi: Câu nói: Nhứt
nhơn hành đạo cửu huyền thăng. Nếu nói như thế, thì có trái với luật nhân quả
không? Xin hỏi: câu nầy ý nghĩa như thế nào? Kính xin thầy giải
đáp.
Đáp: Không có gì chống trái với luật nhân quả cả. Câu nói, mới nghe
qua người ta dễ hiểu lầm. Không phải một người tu hành, thì cả dòng họ chín đời
đều được siêu thăng hết. Chữ siêu thăng ở đây, xin chớ vội hiểu là về Cực lạc
hay an hưởng cảnh giới Niết bàn. Nếu chỉ một người biết lo tu hành mà mọi người
khác trong thân tộc đều được về Cực lạc hay an trụ Niết bàn hết, thì thật là
khỏe khoắn vui sướng biết bao! Hiểu như thế là chống trái với luật nhân quả. Vì
trên đời nầy, không có chuyện người nầy ăn mà người khác no. Ai ăn nấy no, ai
học nấy biết chữ. Ai tu nấy thành, ai hành nấy đắc. Luật tắc nhân quả là như
thế.
Câu nói trên, theo chỗ hiểu của chúng tôi, thì ngầm ý nói rằng: Nếu
trong dòng họ mà có một người xuất gia tu hành chơn chánh, thì có thể cảm hóa
được những người thân thuộc khác. Có nghĩa là những người trong thân tộc sẽ phát
tâm tu theo. Trải qua một đời cho đến nhiều đời đều như thế. Như trường hợp đức
Phật Thích Ca, Ngài đã trải qua nhiều kiếp tu hành, cứ mỗi đời Ngài phát nguyện
tu, thì đều có những người thân thuộc phát tâm tu theo. Cho đến sau khi thành
Phật, những người thân có duyên xưa kia phát tâm tu theo Ngài, tất cả đều có mặt
trong pháp hội thuyết giáo của Ngài. Và những người nầy tu hành đều được giải
thoát cả. Cụ thể hơn, là sau khi xuất gia tu hành đắc đạo, Ngài trở về hoàng
cung hóa độ được những người thân theo Ngài tu hành giải thoát.
Sự tác
động ảnh hưởng của Ngài quá lớn. Ngài đã gây ảnh hưởng cho những người khác phát
tâm bồ đề hướng thiện tu hành, nói siêu thăng là như thế. Siêu thăng là vượt lên
cái tâm bất thiện để trở thành cái tâm thiện. Nói rõ hơn là vượt lên cái tâm
phàm tình gây tạo ác nghiệp để chuyển thành cái tâm thánh thiện hiền lương. Còn
nói cửu huyền là một cách nói trải qua nhiều đời. Cứ mỗi đời trong thân tộc có
người xuất gia tu hành, thì những người thân khác phát tâm tu theo. Nghĩa là một
người tu được giải thoát, thì nó có một tác động mạnh mẽ, đánh thức được bao
nhiêu người trong thân tộc khác để hướng về đạo đức tu hành làm lành lánh dữ
v.v…
Hiểu như thế, thì không có gì là chống trái với nhân quả cả. Chẳng
những không chống trái mà còn đúng theo luật nhân quả. Bởi vì nhờ vào hình ảnh
của một người thân thuộc tu hành có đức độ mà cảm hóa ảnh hưởng đến những người
khác hướng thiện tu hành. Đó là điều rất thực tế và tốt đẹp. Đức Phật cảm hóa
trong hoàng tộc của Ngài là như thế, chớ không phải Ngài dùng thần thông đưa hết
dòng họ của Ngài về Cực lạc hay Niết bàn. Nhờ vào hình ảnh siêu thoát của Ngài
mà đánh động được tâm thức những người khác phát tâm tu theo, nên kết quả họ
cũng được siêu thoát như Ngài. Nói siêu thăng là như thế.
Hỏi: Người Phật tử đã
quy y thọ ngũ giới rồi, tại sao còn tin vào bói toán và coi ngày giờ tốt xấu,
xin xăm, cúng sao hạn v.v… Như thế có trái với luật nhân quả hay
không?
Đáp: Xin thưa ngay là hoàn toàn chống trái với luật nhân
quả.
Đây là điều mà phần lớn người Phật tử chúng ta vướng mắc phải. Có
những người, tuy đã quy y Tam Bảo, nhưng hạt giống tà ngoại của họ còn quá sâu
dầy, nên việc mê tín dị đoan, thật họ khó lòng bỏ hẳn. Đối với Phật pháp, tín
tâm của họ rất mỏng. Hơn nữa, sự nghiên cứu học hỏi Phật pháp của họ cũng không
được sâu rộng lắm. Do đó, mà lòng tin ở nơi chánh lý nhân quả của họ không được
vững chắc. Điều nầy, là một hiện tượng chung thật quá đau lòng !
Người
Phật tử quy y Tam Bảo thì nhiều, nhưng tin sâu vào Tam Bảo và hiểu được Phật
pháp, thì chẳng có bao nhiêu. Thế nên, tình trạng mê tín vẫn còn kéo dài mãi. Sự
mê tín nầy không những chỉ ở nhơn gian thôi, mà ngay cả ở trong chùa cũng vẫn
có. Nghĩa là, Tăng, Ni vẫn còn coi ngày, coi sao, đoán quẻ v.v… Như thế, thì
trách gì Phật tử! Tệ trạng nầy, không phải mới đây, mà nó đã có từ lâu đời.
Việc mê tín ở Việt Nam hiện nay, phải nói xảy ra rất nhiều và tai hại
rất trầm trọng. Dù đã được những bậc Tôn đức tu hành chơn chánh thuyết giảng kêu
gọi Phật tử không nên mê tín mù quáng. Đặt niềm tin không đúng chỗ, nó sẽ gây ra
tai hại lớn lao. Chẳng những hại mình trong đời nầy mà nó còn kéo dài nhiều đời
sau nữa. Thế nên, người Phật tử cần phải xây dựng cho mình một lòng tin đặt trên
nền tảng trí tuệ. Nói cách khác, người Phật tử phải dùng ngọn đuốc trí tuệ soi
sáng và chỉ đạo cho niềm tin. Có thế, thì mới mong thoát khỏi vòng khổ đau lẩn
quẩn.
Trong Kinh Di Giáo, trước khi vào Niết Bàn, đức Phật đã ân cần dặn
dò khuyến nhắc các thầy Tỳ kheo, các thầy nên ghi nhớ, sau khi tôi diệt độ, các
thầy không được: … “Xem tướng lành dữ, trông xem sao hạn, xem xét thạnh suy, coi
ngày đoán số, đều không nên làm…” Dù đã có lời răn nhắc của Phật, nhưng tệ
trạng tập tục nầy từ xưa tới nay cũng vẫn còn tiếp diễn và chưa biết đến bao giờ
mới thật sự chấm dứt!
Xin nhắc lại: “Tin như thế, thì hoàn toàn chống
trái với luật nhân quả”. Chánh tín và mê tín là hai phạm trù dị biệt, như sáng
với tối. Hễ có sáng thời không có tối. Hễ có tà kiến, thì không có chánh kiến.
Hễ có mê tín, thì không có chánh tín. Ngược lại cũng thế. Đạo Phật là đạo giác
ngộ, là đạo chủ trương chánh kiến, chánh tín. Đạo Phật không bao giờ chấp nhận
tà kiến, mê tín. Là người Phật tử dù xuất gia hay tại gia, chúng ta phải có bổn
phận nêu cao chánh lý nhân quả và hướng dẫn mọi người đi đúng trên lộ trình giác
ngộ. Đúng theo lời Phật dạy. Lệch quỹ đạo giác ngộ là chính ta đã đánh mất vai
trò xiển dương chánh pháp và như thế, thật là đắc tội với Tam Bảo.
Trong
quyển Bước Đầu Học Phật, do Hòa Thượng Thích Thanh Từ biên soạn, có bài viết nói
về:”Mê Tín Và Chánh Tín” ở đoạn kết luận, ( trang 122 ) có đoạn Hòa Thượng viết:
“Đạo Phật chủ trương chánh tín, không bao giờ chấp nhận mê tín. Do vì người
truyền đạo không thông lý đạo, nên ghép những tập tục thế gian vào trong đạo,
khiến người ta hiểu lầm đạo Phật mê tín. Bản chất của đạo Phật là trí tuệ, là
giác ngộ, làm sao dung nạp được mê tín. Nếu người ta thấy trong chùa chiền hiện
nay còn những hiện tượng mê tín, vội phê bình đạo Phật mê tín. Đây là những oan
tình của đạo Phật. Tất cả những Kinh Phật không có nói những việc mê tín ấy
chẳng qua một số người vì tùy tục, vì thiếu hiểu Phật pháp vẽ bày ấy thôi. Người
học Phật chân chánh phải gan dạ loại bỏ những tập tục sai lầm ấy, can đảm dứt
khoát đập tan mọi tệ đoan làm suy giảm giá trị Phật pháp. Có khi dẹp bỏ những
điều đó, có thể thiệt thòi chút ít quyền lợi của mình. Song chúng ta cương quyết
vì chánh pháp, chớ không vì lợi dưỡng, vì đưa người ra khỏi đường mê, không vì
sợ mất mát bổn đạo. Được thế, chúng ta mới xứng đáng là người lãnh đạo tín đồ,
mới không hổ thẹn là hàng Tăng Bảo.”
Hỏi: Là người nữ
trong thời kỳ kinh nguyệt, chúng con có được phép tụng Kinh bái sám như những
ngày thường được không?
Đáp: Xin thưa ngay là không có gì trở ngại cả. Trong Luật
Phật không có ngăn cấm điều nầy. Bởi lẽ, kinh nguyệt là một hiện tượng sinh lý
tự nhiên của người phụ nữ. Điều đó, không ai muốn như thế. Đó là một định lý tự
nhiên mà không người phụ nữ nào tránh khỏi. Đã thế, thì tại sao Phật tử lại lo
sợ? Phật tử đừng có ái ngại lo sợ gì cả. Chỉ lo sợ là Phật tử giải đãi rồi viện
cớ lý do mà bỏ ngang sự tu hành, thì đó mới là điều đáng trách và đáng nói.
Ngoài ra, không có gì phải bận tâm lo lắng.
Nếu bảo rằng, đó là những bài
tiết dơ dáy, thì thử hỏi trong cơ thể con người, tất cả những chỗ bài tiết khác
có chỗ nào sạch sẽ hết đâu? Phật dạy, thân nầy vốn là bất tịnh kia mà! Không lẽ
vì sự bất tịnh mà chúng ta lại bỏ phế việc tu hành sao? Hơn nữa, chư Phật, Bồ
tát, các Ngài đâu còn có tâm phân biệt chấp trước nhơ sạch như phàm phu tục tử
chúng ta. Các Ngài lúc nào cũng mong mỏi khuyến khích chúng ta tinh tấn tu hành.
Đã thế, thì thời gian đối với sự tu hành của người Phật tử phải nói là vàng bạc
quý báu. Không giờ phút nào lại không tu hành. Dù tu theo thời khóa hay không
thời khóa cũng thế. Vì một ngày qua, thân ta mỗi suy tàn già yếu. Bệnh hoạn và
cái chết đến với chúng ta không biết lúc nào. Thử hỏi có mấy ai lường trước
được?
Thế thì, tại sao chúng ta không nghĩ đến sự vô thường nhanh chóng
mà nỗ lực gắng chí lo tu? Phật tử nỗ lực tu hành, công phu tụng kinh, bái sám,
chư Phật, Bồ tát, các Ngài thương không hết có đâu lại quở trách sự không trong
sạch của Phật tử.
Đối với Phật Pháp, sự nhơ bên ngoài không đáng kể, mà
đáng kể nhứt là cái nhơ trong lòng của chúng ta. Cái cấu trược phiền não tham,
sân, si, mới là cái đáng cho chúng ta quan tâm mà gấp lo tiêu trừ. Nói thế,
không phải chúng ta coi thường phần sự tướng bên ngoài. Nhưng chúng ta phải biết
cái nào quan trọng và cái nào thứ yếu. Cái nào gốc, cái nào ngọn. Cái quan
trọng, thì chúng ta phải quan tâm nhiều hơn. Đó là sự sáng suốt khéo biện biệt
của người Phật tử trong lãnh vực tu hành.
Tóm lại, Phật tử cứ yên tâm
không có gì phải lo ngại. Phật tử cứ sinh hoạt tụng kinh bái sám như thường lệ.
Không có gì là tội lỗi cả. Chỉ mong sao Phật tử cố gắng giữ thời khóa tụng niệm
bình thường. Được vậy, chư Phật và Bồ tát rất hoan hỷ và khen ngợi sự tinh tấn
tu hành của Phật tử.
Chúc Phật tử luôn an vui và luôn tinh tấn trên bước
đường tu niệm, cầu nguyện Phật tử chóng đạt thành đạo quả.
Hỏi: Vào những ngày
ăn chay, Phật tử tại gia chúng con có ăn trứng gà được không? Con nghe người ta
nói, trứng gà không trống ăn được. Nếu ăn, có bị mang tội không?
Đáp: Phật giáo Bắc tông (Đại Thừa) chủ trương ăn chay, là vì
lòng từ bi và hơn nữa là muốn tránh quả báo oán thù. Không vì mạng sống của mình
mà làm tổn thương đến những mạng sống của những con vật khác. Nếu bảo ăn chay là
tu, theo tôi, thì chưa đúng hẳn. Bởi vì, Phật giáo Nam tông (Nguyên Thủy) đâu có
ăn chay ngày nào. Ngay cả đức Phật và các vị Thánh Tăng theo Phật thời xưa, các
Ngài đâu có ăn chay. Các Ngài ôm bát đi khất thực, ai cúng gì ăn nấy. Phật tử Ấn
Độ thời Phật, họ ăn mặn chớ đâu có ăn chay. Như vậy, chả lẽ các Ngài không ăn
chay là không tu sao? Không tu, sao các Ngài thành Phật và thành A la hán? Song
có điều các Ngài không tự tay sát hại mà thôi. Người Phật tử cần phải hiểu cho
thật rõ giới thứ nhất nầy.
Trong giới thứ nhất, Phật dạy người Phật tử
không được sát sanh, nhưng chủ yếu Phật dạy, là không được giết người. Vì mạng
sống con người rất là quan trọng so với các loài vật khác. Điều nầy, đối với
luật pháp thế gian cũng thế. Giết người là một trọng tội, tất nhiên phải bị ở
tù. Ngược lại, giết hại sinh vật, thì không.
Cho nên, người Phật tử không
được giết người. Gìn giữ không giết người là căn bản, rồi từ đó hạ xuống dần đến
những loài súc vật nhỏ khác. Tránh sát hại được bao nhiêu thì tốt bấy nhiêu. Chớ
nếu giữ một cách tuyệt đối, thì không ai giữ đúng cả. Kể cả chư Tăng Ni ở trong
chùa cũng không tránh khỏi. Thử hỏi khi Tăng Ni bệnh có cần uống thuốc không?
Nếu uống, thì cũng đã giết hại biết bao con vi trùng rồi. Thế thì, luận cho
cùng, không một ai tránh khỏi cả.
Câu hỏi của Phật tử, theo tôi, thì
người Phật tử tại gia ăn trứng gà vào những ngày ăn chay là không có gì tội lỗi
cả. Vì sao, vì trứng gà vốn không có trống. Mà không có trống, tức không có mầm
sanh. Không có mầm sanh, thì làm gì có sự giết hại? Nếu có mầm sanh mà mình
giết, thì hơi tàn nhẫn. Đấy là nói, những người tu hạnh xuất thế cần giữ, để
tiến lên đạo quả Bồ đề nhanh chóng. Còn đối với Phật tử tại gia, tu theo nhơn
thừa, tức theo hình thức giới tướng giữ 5 giới, thì việc ăn trứng gà không
trống, thật không có gì tội lỗi. Điều nầy, đối với người tu Tiên, thì cấm kỵ. Vì
tu Tiên là họ luyện tập để cho thân thể được nhẹ nhàng. Cho nên, họ không ăn
những thức ăn trược uế. Ngược lại, người tu Phật thì không thế.
Lý do tại
sao chúng tôi dám quả quyết như thế, Vì theo Luật Phật dạy, cái gì có mầm sanh
mà mình đoạn tuyệt mạng sống của nó, thì mới có tội. Còn trứng gà, như Phật tử
đã nói là không có trống, đã không trống, thì ăn có gì là sát sanh hại vật đâu
mà sợ.
Nếu Phật tử còn nghi, thì xin Phật tử nghe lại bộ băng nhựa nói về
33 vị Tổ Thiền Tông Ấn Độ và Trung Hoa, do Hòa Thượng Thanh Từ thuyết giảng tại
Thiền Viện Thường Chiếu. Trong đó, có câu hỏi cũng tương tợ như câu hỏi của Phật
tử đã hỏi và Hòa Thượng cũng đã trả lời khẳng định là ăn trứng gà không trống
thì không có gì là tội lỗi cả. Phật tử cứ yên tâm, nếu thích thì cứ ăn. Chỉ sợ
ăn nhiều sanh bệnh hoạn mà thôi.
Hỏi: Con có khẩn vái
với thần linh, khi nào con trai của con có việc làm ở Úc, thì con sẽ cúng một
con heo quay để trả lễ. Bây giờ thì con của con đã có việc làm. Nhưng, sau khi
nghe quý thầy giảng pháp nói về việc sát sanh tội lỗi, con không muốn cúng heo
quay nữa. Vậy bây giờ con xin cúng trái cây để trả lễ có được hay
không?
Đáp: Tin là một đức tính quý báu của người Phật tử. Nhưng
điều quan trọng là phải đặt định niềm tin đúng chỗ. Nói rõ hơn, người Phật tử
phải chánh tín. Người Phật tử không tin sâu vào nhân quả, thì chưa phải là Phật
tử. Thay vì tin nhân quả, Phật tử lại đặt niềm tin ở nơi Quỷ Thần. Vì tin vào sự
gia hộ của Quỷ Thần, nên Phật tử mới van vái cho con trai của mình mau có việc
làm. Lúc Phật tử van vái khẩn cầu, thì khẩn cầu là cúng heo quay trả lễ. Sau khi
van vái, thì con trai của Phật tử may mắn được có việc làm. Nay, Phật tử đổi ý
vì sợ mang tội sát sanh. Như vậy Phật tử không sợ Thần linh nổi giận hay sao? Vì
Phật tử đã gạt Thần linh kia mà! Đó là Phật tử thêm một lỗi nữa là thiếu đức
tánh thành thật.
Vấn đề nầy, tôi xin giải đáp phân hai, rồi tùy ý Phật tử
suy xét mà quyết định.
Thứ nhứt, Nếu Phật tử cúng heo quay đúng như lời
van vái (vì Phật tử đã tin như thế) thì phải chấp nhận mang tội sát sanh. Giả
như, bây giờ tôi khuyên Phật tử nên cúng trả lễ bằng trái cây, sau khi cúng, nếu
yên xuôi không có chuyện gì xảy ra cho con trai hay gia đình của Phật tử, thì
mọi việc không sao. Nhưng, nếu có chuyện gì xảy ra, (ở đời nhân quả làm sao biết
trước được) thì đổ thừa tại tôi khuyên bảo cúng như thế, nên mới xảy ra cớ sự
nầy. Bởi vì, Phật tử tuy đã quy y Tam Bảo, nhưng lòng tin của Phật tử thì lại
khác. Nghĩa là Phật tử chưa có đủ tín tâm vào Tam Bảo. Trong khi Phật tử quy y
Tam Bảo: Phật, Pháp, Tăng, thì Phật đã dạy rõ : « Sau khi quy y Phật rồi, Phật
tử không được quy y ở nơi Thiên, Thần, Quỷ, Vật ». Phật tử đã coi Thiên, Thần,
Quỷ, Vật hơn Phật, nên mới cầu khẩn van vái như thế. Bởi Phật tử không có đủ
niềm tin Phật, nên mới van vái cầu khẩn với Quỷ Thần.
Điều nầy, nếu luận
xa hơn một chút, căn cứ vào nhân quả mà nói, thì con trai của Phật tử xin được
việc làm, đâu có phải do Phật tử van vái cầu nguyện mà được. Đó chẳng qua do
nhân và quả của đứa con trai của Phật tử mà thôi.
Thử đặt vấn đề, nếu
nhờ cầu khẩn van vái mới xin được việc làm, vậy thì, thử hỏi biết bao nhiêu
người có việc làm, chả lẽ những người đó đều phải khẩn cầu van vái cúng heo quay
hết sao? Tại sao người ta không van vái gì cả mà họ vẫn có việc làm? Phải chăng,
tất cả đều do khả năng và ý chí của họ. Việc làm có rất nhiều công việc khác
nhau. Người chủ nhận việc, căn cứ vào trình độ học lực và khả năng cũng như sức
khỏe của người xin việc mà họ nhận hay không, đó là quyền của họ.
Giả như
sau nầy, công việc mà con trai của Phật tử đang làm, xảy ra điều gì đó làm mất
lòng người chủ, người chủ liền sa thải, tất nhiên con của Phật tử phải bị thất
nghiệp. Khi đã thất nghiệp, muốn có việc làm lại, thì Phật tử phải tiếp tục van
vái cầu khẩn cúng heo quay nữa. Nếu trong gia đình của Phật tử giả sử có 10
người con, mỗi người tới tuổi trưởng thành phải đi làm, thì những người đó, Phật
tử đều phải van vái cúng tế một con heo quay hết sao? Nếu Phật tử tin như thế,
thì tôi cũng xin đầu hàng, không còn gì nữa phải nói. Khi tin một điều gì, chúng
ta cần phải biện luận cho có lý lẽ. Người Phật tử không thể nhắm mắt tin càn,
tin một cách mù quáng được. Nếu tin như thế, thì còn gì gọi là Phật tử. Xin Phật
tử hãy dùng trí huệ suy xét thật kỹ về vấn đề nầy.
Thứ hai, nếu Phật tử
sợ mang tội sát sanh, phải chịu quả báo sau nầy, thì Phật tử nên cúng trả lễ
bằng trái cây. Thật ra cúng hay không cúng là do lòng tin của Phật tử. Tin thì
có, không tin thì không có. Người xưa có câu nói: “linh tại ngã, bất linh tại
ngã”. Có khi nào Phật tử cúng mà vị Thần nào đó đến thụ hưởng đồ vật cúng đó hay
không? Hay là mọi người trong thân bằng quyến thuộc hưởng dụng. Mọi người hưởng
dụng béo bổ ngon miệng, trong khi đó, thì tội lỗi gây ra chỉ một mình Phật tử
lãnh lấy hết. Như thế, Phật tử có cam tâm làm như thế không? Phật tử tin chắc
vào nhân quả. Mọi việc xảy ra xấu tốt cho mình, tất cả đều do mình gây tạo. Nếu
mình đời trước gây tạo nhân lành, thì đời nầy mình sẽ gặt hái quả lành. Ngược
lại, nếu đời trước hoặc nhiều đời trước nữa mà mình tạo nhân bất thiện, thì đời
nầy khi quả thuần thục xảy đến, thì mình phải nhận lấy. Vì nhân quả không chỉ
xảy ra trong hiện đời mà nó đã trải qua nhiều đời. Người Phật tử phải có niềm
tin chắc chắn đúng theo chân lý nhân quả như thế, thì không có gì gây ra cho ta
sợ hãi cả. Mình làm mình chịu, không than oán trách ai.
Tôi khuyên Phật
tử nên sáng suốt mà nhận định vấn đề. Phật tử nếu có lòng tin vào Tam Bảo, nhân
quả, thì đừng bao giờ nghe theo ai. Vì ở đời, không ai có quyền quyết định cho
mình, mà tất cả nên hư, thành bại, xấu tốt… đều do mình định đoạt lấy. Nên tin
theo lời Phật Tổ dạy mà cố gắng làm lành. Cứ gây tạo nhân lành, thì tất nhiên sẽ
có quả lành. Nhân quả không bao giờ sai chạy, chẳng qua nó đến với mình có mau
chậm mà thôi.
Tóm lại, Những điều giải đáp của chúng tôi trên đây, tất cả
đều căn cứ theo luật nhân quả mà chúng tôi có đôi lời khuyến giải. Tùy Phật tử
quyết định lấy.
Hỏi: Kính thưa thầy,
nhà con không có thờ Phật, chỉ có bàn thờ ông bà, mặc dù con rất tin tưởng Phật
Pháp, nhưng vì hoàn cảnh gia đình chật chội, nên con không có lập bàn thờ Phật.
Vậy xin hỏi: con có tụng kinh được không ?
Đáp: Xin thưa ngay là được, không có gì trở ngại. Tuy nhiên,
ở đây, chúng tôi cũng xin góp thêm chút ý kiến nói rộng hơn về vấn đề nầy. Đứng
về phương diện hình thức sự tướng lễ nghi mà nói, thì khi tụng niệm bái sám,
Phật tử cần phải có thiết lập bàn thờ Phật và phải tôn thờ Ngài nơi chỗ trang
nghiêm thanh tịnh.
Phật hay Bồ tát, tuy là hình tượng, nhưng người Phật
tử phải luôn kính trọng tôn thờ. Ta tôn thờ Phật là vì ta nhớ đến công ơn giáo
hóa của Ngài. Vì Ngài là người giác ngộ hoàn toàn. Tuy Phật đã nhập diệt rất lâu
xa, nhưng Ngài còn để lại cho chúng ta một kho tàng kinh điển vô giá, gồm có ba
tạng kinh điển. Nhờ đó mà chúng ta mới nghiên cứu học hỏi và mới biết được đường
lối tu hành thoát ly sanh tử khổ hải. Như vậy, công ơn của Ngài thật quá lớn
lao, không sao kể xiết. Thế nên người Phật tử sau khi quy y, nghĩ đến công ơn
lớn lao đó của Ngài mà ta nên thỉnh tượng Phật về nhà để tôn thờ.
Thờ
Ngài với mục đích chính là để chúng ta ra vô thấy hình tượng của Ngài để chúng
ta bắt chước noi theo tấm gương công hạnh cao cả giác ngộ giải thoát của Ngài.
Để từ đó, chúng ta cố gắng thật hành theo những gì mà Ngài đã chỉ dạy. Chúng ta
nên đem những lời dạy đó mà ứng dụng trong đời sống thực tế hằng ngày. Có thế,
thì việc thờ Ngài mới được lợi ích. Và thờ Phật như thế mới đúng với ý nghĩa thờ
Phật.
Ngược lại, nếu ta thờ Phật, Bồ tát để mong cầu các Ngài ban ơn
giáng phước, hay trừ tà giải nạn, gia hộ độ trì cho mọi người trong gia đình
luôn được mạnh khỏe, quanh năm suốt tháng gia đạo luôn được bình an, không xảy
ra tai họa. Thờ Phật hay Bồ tát như thế thì thật là một sai lầm rất lớn. Thờ với
quan niệm như thế, có khác nào xem Phật hay Bồ tát như là một vị thần linh. Tệ
hơn nữa, có người còn lo cúng kiến như lo lót hối lộ cho các Ngài phù hộ. Nếu
không được như ý, thì các Ngài không linh. Phật hay Bồ tát là những người giác
ngộ, mà ta lại xê dịch biến các Ngài qua vị trí trở thành Thần linh gia hộ. Thật
là quá mê lầm tội lỗi! Thế nên, người Phật tử khi thờ Phật hay Bồ tát, cần phải
học hỏi hiểu rõ ý nghĩa của sự tôn thờ nầy. Nếu không, thì chúng ta sẽ mang
trọng tội với các Ngài.
Tại sao Phật tử lại thờ kính ông bà? Có phải Phật
tử vì nghĩ đến công ơn sanh thành giáo dưỡng sâu nặng của cha mẹ ông bà mà Phật
tử tôn thờ hay không? Cha mẹ ông bà chỉ là người cho ta cái hình hài thể chất
nầy mà ta còn phải nhớ ơn quý kính tôn thờ như thế, huống gì đối với đức Phật đã
chỉ dạy cho ta có thêm nhiều trí huệ sáng suốt và vạch bày cho chúng ta một con
đường giác ngộ giải thoát vĩnh viễn không còn sanh tử khổ đau. Như thế, thì thử
hỏi ân đức của Ngài đối với chúng ta lớn lao đến bực nào? Vì thế việc thờ Phật ở
trong gia đình đối với người Phật tử tại gia cũng rất là thiết yếu quan trọng.
Trở lại câu hỏi của Phật tử, Phật tử tuy có lòng tin tưởng Phật pháp,
nhưng vì gia cảnh chật chội nên không thể thiết lập riêng bàn thờ để thờ Phật.
Mặc dù Phật tử không có thờ Phật, nhưng vẫn có thờ ông bà. Việc thờ cúng tổ tiên
ông bà là một điều rất tốt theo phong tục truyền thống hiếu đạo của người Việt
Nam. Việc thờ phụng ông bà đó là điều rất quý tôi hết lòng tán dương Phật
tử.
Nếu gia cảnh của Phật tử chật chội, không thể thiết lập một bàn thờ
Phật riêng, nhưng khi tụng niệm lễ bái, thì Phật tử cũng có ý muốn là có hình
tượng Phật để chiêm ngưỡng lễ bái. Theo tôi, thì Phật tử nên linh động, thay vì
đã có bàn thờ ông bà, thì tại sao Phật tử không thờ Phật ở trên. Phật tử nên tìm
cách tạo phương tiện như thế nào đó cho nó thích hợp. Nghĩa là vừa thờ ông bà mà
cũng vừa thờ Phật.
Như thế, thì được lưỡng lợi cả hai. Vì ông bà cũng
phải tôn kính Phật, nên thờ Phật ở tầng trên, và thờ ông bà ở tầng dưới, như thế
có gì là thất kính mà có lỗi đâu. Và thờ như thế cũng đâu có chiếm thêm vị trí
nào khác mà chật chội. Tại vì hoàn cảnh mình phải làm như thế. Phật và ông bà
không có trách cứ Phật tử đâu, ngược lại, chẳng những không trách cứ mà các vị
đó còn thương xót Phật tử nhiều hơn nữa. Vì biết Phật tử là người có tấm lòng
tốt, chí hiếu, nhưng vì gia cảnh chật chội phải thờ phụng như thế mà
thôi.
Tôi thành thật khuyên Phật tử nên làm như thế. Vì có thờ Phật, khi
Phật tử tụng niệm bái sám, nhìn thấy hình tượng tướng hảo của Phật hay Bồ tát,
thì nó càng tăng thêm niềm tin và lòng quy kính của Phật tử hướng về Tam Bảo. Và
do đó, việc tụng niệm của Phật tử càng có thêm sự tha thiết chí thành. Nhờ đó mà
lòng của Phật tử càng cảm thấy vui tươi an lạc dịu hiền tươi mát hơn. Đây cũng
là một điều rất hệ trọng cho đời sống tâm linh, xin Phật tử hãy quan tâm suy xét
lại cho thận trọng kỹ càng.
Đó là nói theo phần sự tướng bên ngoài, còn
luận về lý tánh bên trong, thì Phật tử thường xoay về tự tâm quán chiếu từng
giây phút không cho phiền não phát sanh, như thế thì Phật tử đang thờ Phật và
thật sự tôn kính ông Phật của Phật tử rất mực rồi. Vì mỗi người đều sẵn có ông
Phật. Thờ Phật ngoài để làm sáng tỏ Phật tự tâm của mình. Thờ Phật như thế, mới
đúng là « Sự Lý viên dung ». Và thờ Phật như thế, mới thật sự đúng với ý nghĩa
thờ Phật. Kính mong Phật tử phải thờ Phật cả hai như thế. Có thờ như thế, thì
mới mong thoát khổ. Còn nếu chỉ biết có ông Phật ở bên ngoài không thôi, thì
thật sự chưa đúng với ý nghĩa thờ Phật vậy.
Hỏi: Kính thưa thầy,
vào giờ con niệm Phật công cứ, trong tư tưởng con thường hay mong muốn thấy hình
tượng Phật Di Đà và hình tượng của Bồ Tát Quán Thế Âm. Xin hỏi: sự mong muốn đó
có lỗi gì không?
Đáp: Xin thưa ngay trong lúc liên hữu đang niệm Phật mà vọng cầu
như thế thì thật là có lỗi. Lỗi nầy liên hữu cần nên tránh. Liên hữu nên nhớ,
Phật Tổ dạy chúng ta niệm Phật với thâm ý là để cho chúng ta diệt trừ phiền
não, cho tâm ta được an định. Niệm Phật mà tâm không an định, đó là chúng ta đã
niệm Phật sai rồi. Lẽ ra khi niệm Phật công cứ hay không công cứ cũng phải như
thế. Ngược lại, đằng nầy liên hữu không niệm như thế mà còn niệm Phật với tâm
vọng động mong cầu cho được thấy hình tượng Phật và Bồ tát, thì quả đó là một
sai lầm rất lớn. Vì sao? Vì có mong cầu là có vọng tưởng. Niệm Phật mà còn có
vọng tưởng như thế, thì làm sao tương ưng với pháp môn niệm Phật. Và như thế,
thì đã trái với yếu lý niệm Phật mà Phật Tổ đã chỉ dạy rồi.
Tôi xin nhắc
lại để cho liên hữu chú ý là: “niệm Phật mục đích chính là để dứt trừ phiền
não”. Phiền não có giảm thiểu, thì tâm ta mới được an lạc. Tâm có an lạc, thì
mới có được lợi ích hiện đời và tương lai mới có hy vọng vãng sanh. Bởi tâm có
an lạc thì mới tương ưng với cảnh giới Cực lạc mà chúng ta đang quy hướng.
Nhưng ở đây thì trái lại, liên hữu niệm Phật mà còn có khởi vọng tâm
mong cầu để thấy Phật và Bồ tát, thì đó là điều trái với sự niệm Phật. Khi niệm
Phật, hành giả chỉ nhiếp tâm vào câu hiệu Phật không nên vọng nghĩ điều gì. Chư
Tổ thường dạy là : "tâm và tiếng phải hiệp khắn nhau và phải niệm cho rành
rõ".
Niệm Phật tuy có nhiều cách, nhưng cách tốt nhứt vẫn là trì danh
niệm Phật. Nhưng dù niệm Phật cách nào đi chăng nữa, điều tối kỵ là có vọng tâm
mong cầu. Bất cứ mong cầu điều gì cũng là bệnh cả. Đó là bệnh vọng tưởng phiền
não. Tối kỵ nhứt là vọng cầu thấy hình tượng Phật bên ngoài. Có vọng cầu dù là
vọng cầu thấy Phật, đó cũng là phiền não vọng tưởng mà thôi. Đã có phiền não thì
đã trái với Sự và Lý niệm Phật rồi. Liên hữu nên nhớ, tất cả đều từ tâm mà ra.
Nếu khi liên hữu mong muốn thấy Phật, thì chính cái mong muốn đó là vọng
tưởng. Còn có vọng tưởng là còn sanh diệt, tức nhiên còn có vui buồn vừa ý hoặc
không vừa ý. Vừa ý thì vui, không vừa ý thì buồn. Đó là ma vui ma buồn dẫn dắt
liên hữu. Như vậy là niệm trên sự buồn vui chớ đâu phải niệm Phật. Điều nầy rất
quan trọng mà tất cả liên hữu chúng ta cần phải lưu ý.
Có người khi họ
niệm Phật, thay vì tập trung tâm ý vào câu Phật hiệu, cho tâm được thuần nhứt an
định, họ lại mơ ước thấy Phật tượng bên ngoài. Khi thấy Phật tượng bên ngoài
hiện ra, thì họ rất vui mừng, cho đó là kết quả của sự niệm Phật. Từ đó, mỗi khi
niệm Phật, họ đều khởi ý mong cầu cho thấy Phật như thế. Liên hữu nên nhớ, tất
cả cảnh đều từ tâm. Dù cảnh tốt hay cảnh xấu cũng đều từ tâm vọng mà ra. Phật Tổ
dạy ta niệm Phật là để cho tâm ta được an định. Có an định mới có trí huệ. Có
định huệ thời không có phiền não. Không phiền não, thì mới được nhứt tâm. Đó là
chủ yếu mà trong Kinh tiểu bổn Di Đà, đức Phật Thích ca đã dạy chúng ta như thế.
Niệm Phật để được đi dần đến chỗ « Nhứt tâm bất loạn », niệm Phật như thế mới
hợp với ý Phật Tổ dạy.
Còn có tâm vọng cầu là còn chạy theo cảnh duyên
bên ngoài. Còn theo cảnh duyên bên ngoài đó là cửa ngỏ dễ bị ma dẫn dắt. Giả như
có thấy Phật thiệt ứng thân đi nữa, cũng chưa phải là thấy Phật, đừng nói chi
thấy Phật qua hình tượng.
Trong Kinh Kim Cang Bát Nhã Phật đã từng
dạy:
Nhược dĩ sắc kiến ngã
Dĩ âm
thanh cầu ngã
Thị nhơn hành tà đạo
Bất năng kiến Như
Lai.
Nghĩa là:
Nếu ai cho rằng thấy sắc tướng của Phật mà cho là thấy Phật hay nghe âm thanh
của Phật thuyết giảng mà khởi tâm tìm cầu Phật. Phật nói: « kẻ đó đang thật hành
đạo tà, không bao giờ thấy được Như Lai ». Tại sao thế? Cũng trong Kinh nầy, ở
một đoạn khác Phật nói: “Phàm sở hữu tướng giai thị hư vọng, nhược kiến chư
tướng phi tướng, tức kiến Như Lai”. Nghĩa là: phàm cái gì có hình tướng đều là
hư dối, nếu thấy các tướng, chẳng phải tướng thật, chính đó mới thấy được Như
Lai. Như lai là bất sanh bất diệt, còn các tướng đều sanh diệt hư dối không
thật. Đã là hư dối, thì tại sao ta lại mong cầu? Phật tử nên nhớ, Phật dạy,
ngoài tâm mà cầu Phật đó là ngoại đạo.
Như vậy, người muốn thấy Phật
phải thấy bằng cách nào? “Phải thấy không chỗ để thấy, tức là phải ưng vô sở trụ
nhi sanh kỳ tâm”. Còn có tâm dính mắc vào bất cứ cảnh nào, cũng đều là tà ngoại
cả, chớ không phải thấy Phật thiệt. Phật thiệt phải chính ở nơi bản tâm mình.
Khi nào tâm mình lặng hết vọng tưởng, thì ngay đó Phật thiệt của mình mới hiện
ra, khỏi cần tìm kiếm ở đâu xa. Còn có khởi tâm tìm kiếm là đã sai rồi. Nói rõ
hơn là đã mất ông Phật thiệt của mình rồi. Vì ông Phật ứng thân giáng sanh ở Ấn
Độ sống được 80 năm rồi nhập diệt, ông Phật đó cũng là ông Phật giả mà thôi. Vì
ông Phật đó có sanh có diệt.
Bây giờ, người ta đi qua Ấn Độ đâu có ai còn
thấy ông Phật Thích Ca đó nữa. Ông Phật có sắc thân với 32 tướng tốt và 80 vẻ
đẹp mà còn không có thiệt, hà tất gì ông Phật do người ta tạo ra bằng cốt sắt xi
măng hay bằng gỗ giấy mà có thiệt hay sao?
Tu hành mà dụng tâm sai, thì
đó là đầu mối của ma vương dẫn dắt. Nếu hành giả không khéo thì sẽ nguy hiểm vô
cùng. Chúng ta nên nhớ rằng, bọn ma nó có ngũ thần thông, nó muốn hiện ra thứ gì
cũng được. Tùy theo ý muốn của mình, ham thích thứ gì thì nó sẽ hiện ra thứ ấy.
Thuở xưa, chính Tổ Ưu Ba Cúc Đa là vị Tổ sư thứ tư bên Ấn Độ còn phải bị
lầm lẫn khi nó hiện ra hình ảnh đức Phật và các vị Thánh chúng. Là Tổ mà còn lầm
ma tưởng là Phật, như thế, còn đối với phàm phu chay như chúng ta thì sao? Bản
thân mình đã là ma rồi mà không chịu lo tìm cách để tiêu trừ, mà lại còn vọng
cầu thấy nầy thấy nọ, đó là ma lại chồng chất thêm ma nữa.
Tệ hại hơn
nữa, có người lại còn đi khoe khoang với mọi người cho rằng mình niệm Phật đã
thấy Phật. Hỏi thấy Phật như thế nào? thì họ trả lời là thấy qua Phật tượng
giấy. Nếu thấy Phật tượng giấy thì có gì khó khăn đâu. Chúng ta cứ mở to đôi mắt
ra là nhìn thấy rồi. Đâu cần đợi đến khi niệm Phật mới thấy hình tượng đó. Như
vậy, rõ ràng là họ thấy bằng vọng tưởng của họ. Vậy mà cũng đi khoe với mọi
người. Người không hiểu biết, nghe nói tưởng là người đó tu hành công phu khá,
vì nhờ tu khá nên mới thấy Phật.
Ngược lại, đối với những người có chút
ít kinh nghiệm trong sự tu hành hay họ học hỏi nghiên cứu kỹ kinh điển Phật dạy,
nghe nói thế, thì họ lại đâm ra lo sợ và thật đáng thương xót cho người đó. Vì
họ biết người đó đã sai lầm rồi. Nhưng vì người đó đã mang nặng mặc cảm định
kiến, thì dù cho họ có thật tâm khuyên bảo, nhưng đâu dễ gì mà người đó chịu bỏ.
Thuở xưa, sơ tổ Liên Tông là Huệ Viễn đại sư khi nhập định, ở trong
định, Ngài thấy Thánh cảnh Tây phương hiện ra 3 lần. Nhưng Ngài tuyệt nhiên
không dám hở môi. Vì sợ người ta hiểu lầm chạy theo cái giả tướng mà mong cầu,
thì đó là tai hại vô cùng. Cho nên Tổ yên lặng không bao giờ tiết lộ cho ai
biết. Mãi cho đến khi sắp viên tịch, bấy giờ, Tổ mới nói cho các vị đệ tử
biết.
Chúng ta nên nhớ, Ngài thấy Thánh cảnh trong lúc nhập định, bởi do
nhập định tâm của Ngài thanh tịnh, an định nên nó mới tương ưng với cảnh Cực
lạc. Do đó, nên cảnh cực lạc mới hiện ra, chớ không phải do Ngài vọng tâm mong
cầu mà thấy. Đó là điều mà ta nên cẩn thận lưu ý.
Ngược lại, chúng ta
chưa được như thế, mà khởi tâm mong cầu thì dễ bị ma nó dẫn dắt. Và cái thấy của
ta là do vọng tưởng nó lòa hiện ra thôi, chớ không phải là thiệt. Nếu không khéo
buông bỏ cứ mãi đắm mê chạy theo cái giả cảnh đó, thì có ngày chúng ta sẽ bị
bệnh loạn trí. Đến khi bị ma nó dẫn dắt đi vào con đường mê loạn rồi, thì chừng
đó chúng ta có hối hận ăn năn thì cũng đã muộn màng lắm rồi! Chi bằng chúng ta
nên tránh nhân thì không có quả. Một khi đã vướng bệnh nặng rồi, thì hết phương
cứu chữa. Đó là điều rất tai hại nguy hiểm mà chúng tôi xin thành thật khuyên
hành giả nên dè dặt cẩn trọng.
Tóm lại, liên hữu niệm Phật cứ nắm chắc
sáu chữ Di Đà mà chuyên niệm, đừng khởi tâm vọng cầu muốn thấy thứ gì cả. Khi
nào tâm của liên hữu được an định thanh tịnh rồi, thì chừng đó lo gì liên hữu
không thấy Phật. Bởi vì khi đó tâm của liên hữu cùng tâm Phật tương ưng với
nhau, nghĩa là nó có cùng một tần số, thì chắc chắn sẽ cảm ứng gặp nhau thôi.
Kính mong liên hữu nên chú tâm cẩn trọng vấn đề nầy. Kính chúc liên hữu thành
công trong việc niệm Phật cầu vãng sanh.
Hỏi: Kính bạch thầy,
khi xưa tánh con rất nóng, thường hay cãi vã gây lộn với chồng con, ông chịu
không nỗi tánh nóng nảy ngang bướng hỗn hào của con, nên ông bỏ nhà ra đi để lại
cho con nuôi 3 đứa con. Nay các con của con đã trưởng thành, giờ nghĩ lại con
cảm thấy rất có lỗi với chồng con và con mãi mặc cảm ray rứt ăn năn về những tội
lỗi mà con đã gây ra. Vậy xin hỏi: Có cách nào làm cho con giảm bớt được tội lỗi
nầy không?
Đáp: Tôi rất cảm thông về nỗi lòng của Phật tử. Nóng nảy là
hiện tướng thô bạo của lòng sân hận. Sân là một trong 6 món căn bản phiền não :
tham, sân, si, mạn, nghi, ác kiến. Nói gọn hơn, phiền não sân là một trong 3 món
Tam độc : « Tham, sân, si ». Sở dĩ gọi chúng là căn bản, bởi vì những thứ phiền
não nầy chúng có gốc rễ rất sâu dầy thật khó trừ khó đoạn. Không phải chỉ có
trong hiện đời nầy mà chúng đã có từ vô lượng kiếp. Nhơn loại bị đau khổ luôn
luôn bất an cũng chỉ vì bọn chúng. Những thứ nầy không ai lại không có. Nhưng
hiện tướng của chúng nặng hay nhẹ mạnh hay yếu còn tùy thuộc ở nơi sự dụng công
huân tu của mỗi người. Sự dụng công tu hành nầy không những hiện đời mà còn
trong nhiều đời trước.
Thế nên, khi chúng hiện hành mới có sự nặng nhẹ
hay mạnh yếu khác nhau. Nếu là người có tập khí sân hận sâu dầy và họ không biết
tu tâm sửa tánh, tất nhiên là cường độ nóng nảy của họ rất mạnh bạo hung tợn. Họ
dám giết người và gây ra nhiều tội ác tày trời mà chúng ta không thể nào lường
trước được. Ngược lại, nếu người khéo biết dụng công tu hành, thì tương đối
cường độ hiện hành của chúng đỡ hơn.
Qua sự trình bày của Phật tử, thì
tập khí sân hận của Phật tử khá sâu nặng, nên mới hiện tướng nóng nảy dữ tợn.
Sân hận (căn bản và tùy phiền não) tuy chúng có gốc rễ sâu dầy, nhưng bản chất
của chúng là giả tướng không thật. Vì chúng không thật nên khi tu, chúng ta mới
chuyển đổi được chúng.
Ngài Vĩnh Gia Huyền Giác đã nói trong Chứng Đạo
Ca: “Tam độc thủy bào hư xuất một”. Nghĩa là: Ba thứ tham, sân, si nầy, chúng
chỉ là bọt nước chìm nổi không nhứt định. Bởi thực thể của chúng vốn là giả dối
không thật. Nếu chúng thật, thì làm sao chúng ta có thể chuyển hóa được. Và như
thế, thì làm sao tu hành thành Phật Tổ được ?
Chúng phát hiện nổi lên
sóng gió là tùy duyên. Khi nào gặp hoàn cảnh trái ý nghịch lòng, thì chúng mới
xuất hiện. Bình thường chúng ta không nhận diện ra chúng. Bởi thế, nên Duy Thức
học gọi chúng là những thứ tập khí. Tuy chúng không thật, nhưng khi chúng hiện
khởi mà ta nghe theo mệnh lệnh sai khiến của chúng rồi hành động, thì hậu quả sẽ
gây ra một tác hại rất lớn lao, có thể giết người hàng loạt không biết gớm tay.
Năng lực của chúng rất mạnh bạo là như thế. Kém hơn một chút thì đánh đập, chửi
rủa mắng nhiếc v.v…
Trường hợp của Phật tử nằm trong dạng thức nhẹ hơn là
chỉ mới chửi rủa hỗn hào thôi. Tuy nhiên, dù nhẹ, nhưng hậu quả cũng mang đến
một tác hại là mất hạnh phúc hòa khí trong gia đình. Cụ thể bằng chứng là ông
chồng của Phật tử phải bỏ nhà ra đi. Như thế, chứng tỏ rằng, ông ta đã không còn
đủ sức chịu đựng qua sự hành hạ nặng nhẹ của Phật tử. Chỉ còn một cách duy nhứt
là phải bỏ nhà ra đi mà thôi.
Người đàn ông là cột trụ trong gia đình có
trách nhiệm nặng nề và nhẫn nại cũng khá, thế mà phải bỏ nhà ra đi, thì chứng
minh việc đối xử của Phật tử đối với ông ta cũng rất là nặng ký. Chính vì thế,
mà nay Phật tử nghĩ lại mới ăn năn hối cải những lỗi lầm mình đã gây ra. Sự ăn
năn nào cũng đều là muộn màng cả. Chi bằng tránh nhân, thì không có quả. Rất
tiếc, có lẽ ngày xưa, Phật tử thiếu tu, vì chưa hiểu được đạo lý, nên mới có
những cử chỉ hành động như thế. Hoặc giả cũng vì hoàn cảnh nào đó mà đưa đẩy
Phật tử phải như vậy.
Tuy sự thể đã xảy ra khá lâu, nay Phật tử biết ăn
năn cải hối, đó là điều rất tốt. Phật dạy: đã là con người không một ai trọn
vẹn, không ai lại không có lỗi lầm. Khổng Tử cũng nói: “nhơn vô thập toàn”. Con
người vì còn sống trong vòng vô minh nghiệp thức, ít nhiều gì cũng đều có gây ra
những nghiệp bất thiện. Nhưng khi đã gây tạo mà mình biết ăn năn sám hối, thì
những lỗi lầm kia sẽ có lúc phải hết. Chỉ sợ là khi đã gây tội mà không biết cải
hối, thì tội lỗi kia càng ngày càng chồng chất thêm nặng mà thôi.
Trường
hợp lỗi lầm của Phật tử đã gây ra, chiếu theo luật nhân quả mà xét, thì ít nhiều
gì Phật tử cũng phải có quả báo. Đã có gây nhân, tất nhiên phải có quả. Tuy
nhiên, sự trả quả báo nầy nó còn có sự nặng nhẹ khác nhau. Nếu như hôm nay Phật
tử biết tu hành lo làm lành lánh dữ tích công bồi đức, ăn năn sám hối về cái tội
hỗn hào mang khẩu nghiệp hiếp đáp nặng nhẹ ông chồng, thì chắc chắn là những tội
lỗi đã gây khi xưa lần lần sẽ giảm bớt, tức chuyển nặng thành nhẹ vậỵ. Bởi thế,
nên nói tu là chuyển nghiệp. Nếu nghiệp không chuyển được, thì ai tu làm gì cho
thêm nhọc sức. Đó là chúng tôi nêu ra có tánh cách chung chung trong sự tạo
nghiệp bất thiện và biết cải hối mà thôi.
Còn như trong trường hợp của
Phật tử, nếu muốn chấm dứt mặc cảm tội lỗi, giải quyết cụ thể hay nhứt chỉ có
cách là Phật tử phải mạnh dạn can đảm xin lỗi với ông ta về những việc đã gây ra
mất hòa khí khi xưa. (xin lỗi không biết ông ta có còn sống không ?) Nếu như ông
ta chịu tha thứ bỏ qua tất cả, thì Phật tử sẽ không còn gì phải ân hận mặc cảm
tội lỗi nữa. Giả như ông ta vẫn cố chấp không chịu tha thứ bỏ qua, thì Phật tử
cũng không còn gì phải ray rứt khó chịu, vì Phật tử đã biết lỗi và xin lỗi rồi.
Theo tôi, đó là cách giải quyết hay nhứt. Nhưng không biết Phật tử có đủ can đảm
hay không. Biết có lỗi đến xin lỗi, thì đây là chuyện bình thường trong cuộc
sống, không có gì phải tự ái hay tự ty mặc cảm cả.
Qua những điều chúng
tôi góp ý trình bày trên, xin Phật tử cứ yên tâm, cũng đừng mang nặng mặc cảm
tội lỗi nữa. Vì còn mang nặng mặc cảm tội lỗi, thì đó cũng là một chướng đạo rất
lớn trên bước đường tu tập của Phật tử. Điều gì đã qua thì hãy cho nó qua luôn.
Dù mình có nghĩ đến, thì sự việc cũng đã qua rồi, tốt hơn hết là mình hãy cố
gắng tập sống ngay trong giây phút hiện tại. Tôi thành thật khuyên Phật tử nên
để tâm niệm Phật, tụng kinh, sám hối và làm mọi việc lành nhiều hơn, để cho tội
nghiệp càng ngày càng thêm nhẹ, đó là điều tốt đẹp nhứt mà Phật tử phải gắng
công tu niệm.
Kính chúc Phật tử an vui khỏe mạnh tinh tấn trên bước
đường tu tập.
Hỏi: Kính bạch thầy,
con có 3 điều thắc mắc mà lâu nay nó cứ mãi ray rứt vương vấn trong lòng không
sao giải quyết:
1. Hiện con đang sống một mình nên con rất lo sợ khi con ngã
bệnh, không ai hay biết và tuổi đời của con hiện nay đã trên 50, dẫu có đi học
cũng không ai mướn mình làm.
2. Tánh con hay nóng nảy, nên con không thích
gần những kẻ chỉ biết sống giả dối bề ngoài, dễ gây ra chuyện không hay, dù đó
là bà con thân thích.
3. Con rất sợ phạm tội sát sanh, lòng muốn ăn chay
trường, nhưng con ăn không được. Xin thầy từ bi dẫn dắt cho con hiểu phải làm
sao cho ổn thỏa?
Đáp: Phật tử đã nêu ra 3 vấn đề thắc mắc, tôi cũng xin lần
lượt theo mỗi vấn đề mà góp thêm chút ý kiến mọn cùng Phật tử. Hy vọng sẽ làm
giảm bớt phần nào nỗi lo lắng vướng mắc của Phật tử hiện nay.
1. Phật tử
hiện đang sống đơn độc, nên Phật tử rất lo lắng là khi ngã bệnh không ai hay
biết để chăm sóc. Vấn đề nầy, Phật tử lo lắng thì cũng phải. Song có điều, tôi
thiết nghĩ Phật tử cũng không nên lo lắng lắm. Trong Kinh Phật dạy: “Có những
điều đáng lo mà không lo, ngược lại, có những điều không đáng lo mà lại lo”.
Thế nào là những điều đáng lo?
Những điều đáng lo là
hiện tại mình có lo tu tạo được nhiều phước đức không? Hằng ngày mình có siêng
năng niệm Phật, hành thiện, tu tâm sửa tánh ở nơi chính bản thân mình và mình có
hết lòng giúp đỡ người khác không? Nghĩa là mình đã có thật sự chuẩn bị chu đáo
cho cái ngày mình từ giả cõi đời nầy chưa? Vì cái ngày mình vĩnh viễn ra đi,
chính lúc đó mới thật sự là hành trình đơn độc. Và những tài sản vật chất mà
mình đã tạo lập xây dựng cả cuộc đời đó, cuối cùng đến khi nhắm mắt, thử hỏi
mình có mang theo được cái gì không? Hay tất cả đều để lại cho đời. Còn lại,
mình chỉ mang theo được hai thứ, đó là: nghiệp lành và nghiệp ác mà thôi.
Như vậy, mình muốn tương lai của mình được vui sướng, hưởng phước báo
tốt đẹp, thì tại sao hiện tại mình không lo tu tạo phước đức? Đó là điều đáng lo
mà mình lại quên không quan tâm tới.
Thế nào là những điều không
đáng lo?
Sanh, già, bệnh, chết, đó là bốn nỗi thống khổ lớn
của con người, mà không một ai tránh khỏi. Cái mà mình không tránh khỏi, thì thử
hỏi có nên lo hay không? Bởi vì, dù mình có lo lắng đến đâu, thì những thứ đó nó
vẫn xảy đến với mình. Bệnh là một điều mà không ai tránh khỏi. Có thân thì phải
có bệnh. Nó là một định luật, một quy trình tự nhiên. Đã thế, thì mình có lo
cũng chỉ uổng công phí sức mà thôi.
Ở xứ Úc nầy, là một nước tương đối
có đời sống văn minh cao. Có đầy đủ mọi thứ tiện nghi vật chất. Hơn nữa, trong
lãnh vực y tế, chánh phủ cũng rất quan tâm lo lắng cho người dân, nhứt là đối
với những vị cao niên sống một mình.
Nhà của Phật tử có điện thoại, khi
nào Phật tử đau bệnh, thì chỉ cần nhấc ống điện thoại lên gọi là có người sẽ đến
giúp ngay. Bệnh nặng, thì có xe cứu thương đến cấp cứu chở vào bệnh viện. Còn
vấn đề chăm sóc, thì dù cho thân nhân ruột thịt của mình cũng chưa chắc chăm sóc
bằng các vị y tá ở đây. Những người y tá họ phục vụ cho bệnh nhân với tất cả tấm
lòng bằng lương tâm nghề nghiệp. Họ là những người đối xử rất tốt với bệnh nhân.
Thế thì, Phật tử còn bận tâm lo lắng làm chi cho mệt sức.
2. Đến vấn đề thứ hai, Phật tử nên biết, mỗi người sanh ra đời đều có nghiệp
riêng, không ai giống ai. Dù đó là anh chị em ruột thịt cùng một dòng huyết
thống, cũng không giống nhau. Thể xác và tinh thần đều không giống.
Khi lớn lên mỗi người lại hấp thụ mỗi môi trường sinh hoạt khác nhau. Khác
nhau từ sự giáo dục, gia đình và xã hội. Thế thì, bảo người nầy giống hệt người
kia sao được.
Sống trong một xã hội, tất cả đều có sự tương quan mật
thiết với nhau. Dù mình có muốn tách mình ra khỏi xã hội cũng không thể nào
được. Hiện tại, mình sống được là nhờ đâu? Có phải là nhờ tất cả không? Trong
nhà Phật gọi là tương duyên tương quan mà hình thành. Nói cách khác là do nhân
duyên nhân quả tương tức tương nhập với nhau mà sinh thành. Như quần áo, cơm ăn,
thuốc men v.v… tất cả Phật tử có làm ra không? Mình không tạo ra, do người khác
tạo ra cho mình có phương tiện để sống, như vậy là mình đã nợ những người tạo ra
đó.
Thế thì, có phải những người đó là ân nhân của mình hết hay không?
Đã là ân nhân với nhau, thì mình nên thương kính hay là thù ghét? Có ai thù ghét
những người thi ân cho mình không? Nếu có, thì quả thật mình đã đánh mất đi nhân
tính của mình rồi. Như thế, thì mình không còn xứng đáng làm người nữa. Do tư
duy như thế, ai mình cũng thấy thật đáng thương và đáng cho mình kính trọng cả.
Như trên đã nói, do biệt nghiệp, nên cá tánh mỗi người mỗi khác. Mà cá
tánh đó có ra là do sự huân tập ở những môi trường sống khác nhau. Như Phật tử
xác nhận, Phật tử vì có tánh nóng nảy, nên không muốn gần gũi giao tiếp với
những người mà họ chỉ biết sống bãi buôi giả dối bề ngoài. Vì thế, mà Phật tử
muốn xa lánh họ.
Xét người phải nghĩ lại mình. Người có tật xấu, còn
mình có phải tốt hết không? Hay mình cũng có những tật xấu khó ưa mà mình không
thấy. Thế nên trong sự giao tiếp, mình có quyền chọn lựa bạn để giao du kết
thân. Nhưng tuyệt đối mình không nên phê bình chỉ trích cá tánh người khác. Sống
trên đời nầy, không có ai hoàn hảo một trăm phần trăm hết đâu. Chỉ ngoại trừ có
một người, đó là Đức Phật. Phật nói, hàng Bồ tát vẫn còn chút ít vi tế vô
minh.
Sở dĩ chúng tôi nói dài dòng như thế, mục đích là để cho Phật tử
thấy rõ nghiệp dĩ sai khác của mỗi người. Từ đó, Phật tử sẽ có cái nhìn cởi mở
và rộng rãi hơn. Còn sự giao du hay không, đó là quyền của Phật tử chọn lựa. Nếu
mình thấy sự gần gũi qua lại có nhiều sự phiền phức mà mình không thích, thì tốt
hơn là mình nên tránh bớt. Nhưng Phật tử nên nhớ, cuộc sống mình không thể đơn
độc được. Dù mình không có giao du với bạn hay người thân của mình nhiều, nhưng
ít ra mình cũng phải có một vài người bạn thân để khi hoạn nạn hữu sự sớm tối
tương trợ lẫn nhau.
Người ta nói: bà con xa không bằng láng giềng gần là
như thế. Như trên Phật tử lo sợ sống một mình không có ai, mà giao tiếp bạn thân
thì Phật tử lại không muốn. Như thế, thì Phật tử rơi vào trạng huống mâu thuẫn.
Phật tử nên nhớ, hễ mình cư xử tốt với người, dù người đó không giúp mình, thì
cũng có người khác giúp mình. Đó là luật nhân quả không sai. Cứ xử sự tốt với
mọi người, thì mình sẽ có kết quả tốt là không ai bỏ mình. Phật tử nên tin chắc
vào luật nhân quả mà hành xử để tạo cho mình có một cuộc sống vui tươi và có
thêm nhiều ý nghĩa thú vị hơn.
3. Vấn đề thứ ba, rõ ràng nghiệp thích ăn thịt cá của Phật tử còn nặng. Mặc
dù lòng thì muốn ăn chay, nhưng cái miệng và cái lưỡi thì nó không cho phép. Cho
nên cuối cùng Phật tử phải chiều theo cái miệng lưỡi để cho chúng nó được thỏa
mãn.
Phật tử thấy không, nội cái vấn đề ăn mặn và ăn chay, cũng đã là một sự cương
quyết khó khăn rồi, đừng nói chi đến những chuyện cao xa khác. Tuy nhiên, hiện
Phật tử là người tu tại gia, tức tu theo nhơn thừa, Phật tử phát nguyện ăn chay
kỳ được mấy ngày, thì tốt mấy ngày. Phật không bắt buộc ai cả. Phật tử còn thích
ăn mặn thì cứ ăn không sao. Nhưng điều quan trọng là Phật tử không nên sát hại
sanh vật để làm thỏa mãn theo nhu cầu của cái lưỡi thì không nên. Vì đó là phạm
tội sát sanh. Phật tử nên nhớ :
Ngỡ rằng ngon miệng béo thân
Nào ngờ
oan nghiệt xoay vần trả vay.
Ngoài ra, Phật tử mua thịt cá ngoài chợ
người ta bán đem về nấu ăn thì không sao cả. Không ăn chay trường được thì giữ
ăn chay kỳ cũng tốt. Đến khi nào Phật tử cảm thấy ngán thịt cá thì chừng đó sẽ
ăn chay trường. Chúc Phật tử vui sống và luôn luôn tinh tấn tu
Hỏi: Kính bạch thầy,
mỗi khi vào chùa nhìn lên bàn Phật, thấy tượng Phật ngồi trên tòa sen, nhưng thú
thật con không hiểu ý nghĩa của hình ảnh hoa sen như thế nào? Mà khi vào chùa
nhìn đâu cũng thấy hoa sen cả. Kính mong thầy giải thích cho chúng con hiểu. Con
cám ơn thầy.
Đáp: Điều thắc mắc của Phật tử về vấn đề ý nghĩa tiêu biểu
của hình ảnh hoa sen, thật là hữu lý và rất thú vị. Vì ý nghĩa của hoa sen,
trong nhà Phật giải thích rất rộng và rất quý trọng hoa sen. Có thể nói hoa sen
là một đặc trưng mà phần lớn rãi rác trong các kinh điển Phật giáo: Nguyên Thủy
và Phát Triển đều có đề cập đến. Một bộ Kinh Đại Thừa trọng đại mà hầu hết Phật
tử thuộc Phật giáo Bắc Tông ít nhiều đều có đọc tụng qua, chẳng những đọc tụng
thôi mà còn quan tâm nghiên cứu học hỏi nữa, đó là bộ Kinh Diệu Pháp Liên
Hoa.
Ngoài ra, hoa sen còn được biểu trưng qua những lãnh vực khác mang
tính đặc thù văn hóa của mỗi quốc gia dân tộc theo Phật giáo. Nhứt là đối với
các nước Phật giáo Á Châu. Đối với các nước Phật giáo Á Châu, tiêu biểu là Trung
Hoa và Việt Nam… hoa sen được trưng bày trong chùa hoặc qua các phù hiệu cờ đoàn
hay các phù hiệu khác của một vài đoàn thể trong Phật giáo. Như đoàn thể Gia
Đình Phật Tử chẳng hạn. Và trong các Tông phái Phật giáo có một Tông lấy hoa sen
mà đặt tên cho một Tông phái, đó là Tịnh Độ Tông, còn gọi là Liên Tông. Như vậy,
cho chúng ta thấy một cách khái quát rằng, hình ảnh hoa sen trong Phật giáo cái
thâm nghĩa của nó quan trọng đến ngần nào. Vì thế, ở đây, chúng tôi chỉ xin giải
thích một cách khái lược qua một vài đặc tính tiêu biểu mang tính ẩn nghĩa trong
giáo lý Phật giáo mà thôi.
Đại loại hoa sen có 8 đặc tính tuyệt diệu sau
đây: 1. Không nhiễm. 2. Trừng thanh. 3. Kiên nhẫn. 4. Viên dung 5. Thanh lương.
6. Hành trực. 7. Ngẩu không. 8. Bồng thực.
1. Đặc tính không nhiễm: Hoa sen dù mọc lên từ bùn nhơ,
nhưng tính chất của nó vẫn không mang mùi hôi của bùn. Ca Dao Việt Nam có bài
nói về đặc tính không cấu nhiễm nầy:
Trong đầm gì đẹp bằng
sen
Lá xanh bông trắng lại chen nhụy vàng
Nhụy vàng
bông trắng lá xanh
Gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn.
Dù nằm trong bùn trải qua nhiều ngày tháng, nhưng
hoa sen vẫn chờ ngày vươn mình lên khỏi mặt nước để nở ra và rồi khoe hương khoe
sắc, ngát tỏa hương thơm cùng khắp đất trời. Ta thấy giữa bùn và hoa không dính
dáng gì nhau. Bùn là tượng trưng cho phiền não nhiễm ô, còn hoa sen là tiêu biểu
cho thanh tịnh. Điều nầy, để nói lên cái ý nghĩa thâm trầm là chư Phật Bồ tát ra
đời, các Ngài vẫn sinh hoạt trong dòng đời, nhưng các Ngài không bao giờ bị cấu
nhiễm. Cư trần bất nhiễm trần là thế. Ngược lại, chúng ta thì có khác. Chúng ta
đụng đâu nhiễm đó. Mặc dù trong mỗi người chúng ta đều sẵn có hoa sen bất cấu
nhiễm nầy. Hoa sen là để tiêu biểu ẩn dụ cho mỗi người chúng ta ai ai cũng sẵn
có Phật tánh. Mà Phật tánh vốn không cấu nhiễm, vì bản chất của nó thanh tịnh
sáng suốt. Nhưng vì chúng ta theo dòng vô minh vọng nghiệp mà tạo ra nhiều tội
lỗi để rồi bị dính mắc trong trần lao ô nhiễm. Đó là đặc tính thứ nhứt.
2. Trừng thanh: Trừng thanh là lóng trong. Điểm đặc biệt là
chỗ nào có hoa sen mọc, thì chỗ đó nước không bao giờ đục. Do đó, khi chúng ta
hái hoa sen, thì khỏi cần phải rửa, bởi hoa sen không dính bùn nhơ. Bởi vì bản
chất của nó mang sẵn tính trừng thanh. Điều nầy để nói lên cái ý nghĩa biểu
trưng rằng, nơi nào có chư Phật, Bồ tát ra đời, thì nơi đó sẽ đem lại cho chúng
sanh có sự an ổn mát dịu. Ngược lại, nơi nào có những phần tử xấu ác bất lương,
thì nơi đó chắc chắn là sẽ xảy ra lắm điều phiền phức họa hại bất an.
Đặc tính trừng thanh nầy, các loài hoa khác không có. Đặc tánh nầy, nếu chúng
ta khéo biết áp dụng vào đời sống thực tế hằng ngày, thì cũng rất là lợi ích. Vì
sao? Vì có thường xuyên lóng lặng cấu uế phiền não thì nước hồ tâm của chúng ta
mới trong sạch thanh lương được. Mà phiền não không có, tất nhiên là chúng ta sẽ
có an lạc hạnh phúc ngay.
3. Kiên Nhẫn: Như chúng ta đã biết, hoa sen là loại túc căn
thảo, tức một loại có nẩy mầm từ rễ củ của năm trước. Hoa sen mang đặc tính kiên
nhẫn rất là kỳ thú. Rễ củ của nó nằm trong bùn thật lâu để chờ đợi khi hội tụ
đầy đủ nhân duyên là nó sẽ nẩy mầm ngay. Sự chờ đợi đó, tức là đức tánh kiên
nhẫn. Đức tánh nầy, rất cần thiết trong đời sống hằng ngày của chúng ta. Người
nào có đức tánh kiên nhẫn nầy, thì người đó khi ra làm việc gì chắc chắn sẽ dễ
đạt được thành công. Bằng ngược lại, thì khó mong đạt được.
Có nhiều khi, vì một việc rất nhỏ nhặt nào đó xảy ra mà chúng ta cũng không
đủ sức kiên nhẫn để vượt qua, thì đừng nói chi đến việc trọng đại. Việc đời cũng
như việc đạo muốn có kết quả tốt đẹp, tất nhiên, chúng ta phải có đức tánh kiên
nhẫn nầy. Nếu không, thì khó mà thành công trong bất cứ lãnh vực nào. Cho nên,
đức tánh kiên nhẫn là một đức tánh tối thiết yếu trong đời sống hướng thượng
thăng hoa, khác nào hoa sen đã kiên nhẫn vươn lên tìm sự sống cao đẹp vậy.
4. Tánh Viên Dung: Đức tánh nầy, đặc biệt chỉ có hoa sen mới
có. Vì hoa sen có những cánh hoa bao bọc gương sen tròn trịa. Đây là tiêu biểu
cho tánh viên giác của mỗi chúng sanh sẵn có. Tánh viên giác vượt ngoài phạm trù
nhân duyên đối đãi. Hoa sen từ lúc nở cho đến lúc tàn, không bị loài ong bướm
làm hư hoại, khác với các loài hoa khác bị ong bướm tìm đến bu đậu và hút lấy
nhụy. Điều nầy, nói lên tánh viên giác tròn sáng vô ngại, không bị cảnh nào có
thể làm tiêu hoại ô nhiễm nó được.
5. Thanh Lương: Thông
thường các loài hoa thi nhau đua nở vào mùa Xuân, vì mùa Xuân là mùa mát mẻ.
Ngược lại, chúng không thể nở hoa vào mùa Thu hay mùa Ðông. Vì mùa Thu là mùa
hay có mưa phùn còn mùa Ðông thì giá lạnh. Do đó, không thích hợp cho các loài
hoa khai hoa nở nhụy. Khác hơn các loài hoa khác, hoa sen lại nở vào mùa Hạ, đây
là mùa nóng bức. Điều nầy, để nói lên ý nghĩa chư Phật Bồ tát ra đời trong cõi
đời ngũ trược, chúng sanh dẩy đầy phiền não, bức bách khó chịu, các Ngài mang
lại nước cam lồ từ bi để tưới tẩm làm mát dịu cho mọi người.
Giữa mùa hè
oi ả nóng bức, nhưng hoa sen vẫn bất chấp sự nóng bức đó mà vẫn vươn mình mọc
lên, để nói lên rằng, dù chúng ta đang sống trong nhà lửa tam giới đang bị thiêu
đốt bởi những thứ lửa dục vọng tham sân si…nhưng chúng ta vẫn cố gắng bền tâm
nhẫn nại chịu đựng để khắc phục vượt qua. Đồng thời dùng nước chánh pháp để tưới
tẩm làm mát dịu tâm hồn.
6. Hành trực: Hành trực là chỉ
cho thân ngay thẳng. Không có loài hoa nào mọc lên mà có thân hình (cọng sen)
ngay thẳng như hoa sen. Điều nầy, để tiêu biểu: “người tu hành cần phải sửa thân
và tâm cho ngay thẳng”. Trong Kinh Duy Ma Cật có câu nói: “Trực tâm tức thị đạo
tràng”. Dù sống trong bất cứ hoàn cảnh thuận nghịch nào hay ở bất cứ nơi đâu mà
tâm ta ngay thẳng, tức không khởi nghĩ hai bên: có, không, phải trái v.v…dù là ở
nơi giữa chợ búa, thì ta cũng biến nơi đó thành đạo tràng. Đạo tràng là nơi
thanh tịnh. Như vậy, đức tánh ngay thẳng là đức tánh mà người Phật tử cần phải
áp dụng hành trì trong đời sống thực tế. Có thế, thì chúng ta mới có sự lợi lạc,
như hoa sen mọc từ bùn thẳng lên và rồi khoe hương khoe sắc
vậy.
7. Ngẩu không: Hoa sen tuy thân ngay thẳng, nhưng
trong ruột thì trống rỗng. Điểm đặc biệt nầy để nói lên một ý nghĩa rất thâm
trầm là người tu hành cần phải có tánh hỷ xả. Hai đức tánh nầy Bồ tát luôn thực
hiện. Nói đến hạnh hỷ xả, chúng ta liền nghĩ ngay đến Bồ tát Di Lặc.
Đức Di Lặc ngồi trơ bụng đá
Bao
bụi trần bám đã rồi rơi
Mặc cho thế cuộc đầy vơi
Dửng
dưng như một nụ cười an nhiên.
Đối với Bồ tát Di Lặc mọi việc đến và đi, tất cả chỉ là một nụ cười an nhiên.
Một nụ cười khi nhìn thấy:
Mắt trông thấy sắc thì thôi
Tai
nghe thấy tiếng nghe rồi thì không
Trơ trơ lẳng lặng cõi
lòng
Nhẹ nhàng ta bước trong vòng trần ai.
8. Bồng thực: Các loài hoa khác, khi bông tàn mới kết nụ
thành trái và có hột. Ngược lại, hoa sen thì không như thế. Hoa sen nở ra thì đã
có gương có hột sẵn rồi. Đó là nhân quả đồng thời. Điều nầy, nói lên một triết
lý sống; nhân quả không bao giờ sai khác. Nhân quả như hình với bóng, hình thế
nào, thì bóng như thế đó.
Thế nên, muốn cho đời sống được an ổn tươi mát
thơm tho như hoa sen, thì chúng ta nên nhớ đến lý nhân quả mà hành xử tu nhân
tích đức, làm lợi ích cho mình và người, thì chắc chắn chúng ta sẽ có hạnh phúc
an lạc ngay trong đời sống hiện thực, không cần phải tốn công hao sức tìm nơi
đâu xa xôi. Niết bàn hay đau khổ, rốt lại ở nơi tâm chúng ta mà thôi.
Trên đây, chúng tôi chỉ nêu ra trình bày một cách khái yếu về những đặc
tánh của hoa sen mà thôi. Thật ra, ý nghĩa của hoa sen rất thâm thúy, không thể
nào giải thích hết được. Tuy nhiên, qua 8 đặc tánh tiêu biểu trên, thiết nghĩ,
cũng tạm đủ để chúng ta hiểu được phần nào về triết lý và hình ảnh hoa sen biểu
trưng trong Phật giáo.
Hỏi: Kính bạch thầy,
trường hợp cha mẹ mình chết ở Việt Nam, nhưng vì hoàn cảnh bất như ý mà không về
để chịu tang cho cha mẹ được, con có thể tới chùa ở đây để xin làm lễ thọ tang
và sau 49 ngày xin xả tang. Xin hỏi: như thế có được không?
Đáp: Xin thưa
ngay là được không có gì trở ngại. Trường hợp của Phật tử vì một lý do hoàn cảnh
nào đó quá đặc biệt, ngoài ý muốn, nên khi hay tin cha hay mẹ mình mất mà không
thể về Việt Nam được để thọ tang, thì Phật tử và gia quyến trong thân thuộc có
thể đến chùa để xin chư Tăng Ni làm lễ thọ tang. Điều nầy, theo tôi, thì không
có gì là bất hiếu hay khó xử cả.
Cần nói thêm, việc cư tang, đây là một
phong tục bắt nguồn từ Nho Giáo mà ra. Trong Phật giáo không có đề cập đến việc
phục sức tang chế. Tang chế là một hình thức biểu lộ lòng thành hiếu thảo của
người con. Quan niệm của tổ tiên ta, coi sự tử như sự sinh. Lúc còn sống mình
đối xử với những người thân thuộc như ông bà cha mẹ… của mình như thế nào, thì
khi chết cũng phải cư xử như thế đó. Do vậy, nên việc để tang là một biểu nghi
hình thức để bày tỏ nỗi nhớ thương người đã khuất bóng.
Ngày xưa, việc cư
tang rất lâu, phải qua cái lễ cúng đại tường. Đại tường là 2 năm còn tiểu tường
là một năm. Cho nên, ngày xưa các con cháu phải để tang cho cha mẹ ông bà phải
đúng 2 năm mới xả. Nghĩa là phải qua cái lễ giỗ đại tường. Nhưng về sau nầy,
người ta lại giảm lần đi. Vì để tang lâu, có nhiều việc bất tiện, trở ngại nhiều
thứ, nhứt là trong vấn đề cưới hỏi hoặc làm ăn v.v…
Từ đó mà người mình
không còn giữ đúng theo phong tục ngày xưa nữa. Bây giờ, thông thường là sau 49
ngày là con cháu có thể làm lễ xả tang.
Như vậy, Phật tử cứ đến chùa xin
chư Tôn đức Tăng Ni để làm lễ thọ và xả tang đều được cả. Đây là vì hoàn cảnh
bất khả kháng, chớ kỳ thật Phật tử đâu có muốn như thế. Vì cha mẹ hay ông bà là
những người thân thuộc nhứt đời mình, lẽ ra là mình phải về để cư tang mới đúng
đạo làm con, nhưng vì hoàn cảnh bắt buộc phải như thế. Xin Phật tử cứ yên tâm,
không ai trách cứ Phật tử khi mà hoàn cảnh không cho phép.
Hỏi: Kính bạch Thầy,
lâu nay con cứ mãi thắc mắc sự khác biệt giữa trí thức và trí tuệ. Con không
hiểu tại sao trong nhà Phật chỉ đề cập đến trí tuệ mà không nói đến trí thức?
Kính xin thầy hoan hỷ giải đáp cho chúng con được hiểu rõ.
Đáp: Theo nhà
Phật, đứng trên mặt hiện tượng nhận thức, giữa trí thức và trí tuệ có khác.
Nhưng không khác, nếu đứng trên mặt bản thể mà xét. Bởi thức không ngoài trí mà
có. Như sóng không rời nước mà có. Nhưng sóng không phải là nước, mặc dù nước
vẫn ngầm có trong sóng. Cho nên giữa sóng và nước không thể xác quyết một hay là
hai được. Nói theo lý bất nhị thì sóng tức là nước và nước tức là sóng. Vì hai
thứ nói một là sai mà nói hai thì không đúng. Giữa trí và thức cũng thế. Đứng về
mặt hiện tượng, thì nói là Thức. Đứng về mặt bản thể, thì nói là Trí. Nói cách
khác, Thức là dụng mà Trí là Thể.
Tuy nhiên, nếu xét theo nghĩa thông
thường mà người ta thường nói, thì giữa trí thức và trí tuệ trong nhà Phật dùng
thì nghĩa của nó khác nhau xa. Bởi trí thức của người đời nói, đó là thứ trí
thức bởi do tích tụ kinh nghiệm mà có. Nói rõ hơn, là do học hỏi huân tập bởi
những môi trường chung quanh mà có ra. Như hấp thụ kinh nghiệm qua các lãnh vực
của đời sống từ trong gia đình, nhà trường và xã hội. Trong nhà Phật gọi đây là
Hữu sư trí. Tức thứ trí do vay mượn bên ngoài đem vào mà tạm có ra.
Ngược lại, trí tuệ cũng còn gọi là Vô sư trí, tức trí tuệ không do sự
vay mượn bên ngoài mà được. Mà tự nó sẵn có, nhưng sở dĩ nó không hiển lộ được
là do phiền não che ngăn. Một khi phiền não không còn, thì trí tuệ sẽ hiện bày.
Thí như bản chất của gương là trong sáng, nhưng vì bị bụi bám quá nhiều, nên ánh
sáng của gương không hiển lộ được. Bản chất của trăng là sáng, nhưng bị mây che
dày đặc, nên ánh sáng của trăng không hiển lộ được. Bụi hết, gương sáng, mây
tan, trăng hiện. Cũng thế, mây vô minh phiền não không còn, thì mặt trời trí huệ
sẽ hiện bày. Bởi do đặc tính đó, mà nhà Phật gọi là trí huệ bát nhã, hay Phật
tánh v.v… Nói thế là để biện biệt với trí huệ mà đôi khi người thế gian cũng hay
đề cập đến.
Tóm lại, trí thức còn trong phạm vi phân biệt, chấp trước bởi
do tích tụ kinh nghiệm vay mượn bên ngoài mà có. Đây là thứ trí thức thuộc Hữu
lậu pháp, hay thế trí biện thông. Ngược lại, trí huệ là cái trí sẵn có không do
vay mượn bên ngoài. Trí nầy khi phát sáng toàn triệt, không còn một chút cáu bợn
vô minh phiền não che ngăn, thì gọi đó là trí huệ cứu cánh, tức là Phật quả
vậy.
Hỏi: Kính bạch Thầy,
con thường nghe nói tu là chuyển nghiệp, nhưng con không biết phải chuyển nghiệp
như thế nào? Và nghiệp là gì mà phải chuyển? Kính xin thầy giải đáp cho chúng
con được hiểu.
Đáp: Chữ nghiệp
trong nhà Phật nói, ý nghĩa của nó rất sâu rộng. Ở đây, chúng tôi chỉ xin giải
đáp một cách đại khái sơ lược thôi. Nghiệp nguyên tiếng Phạn là karma, Trung Hoa
dịch là nghiệp. Nó có nghĩa là một hành động được lặp đi lặp lại nhiều lần
thành thói quen, nên gọi đó là nghiệp. Như nghiệp hút thuốc, nghiệp cờ bạc,
nghiệp rượu chè say sưa v.v… Như người ghiền xì ke ma túy, lúc đầu mới hút hay
chích một hai liều thì không sao, nhưng khi làm nhiều lần thì thành ra thói quen
nghiện ngập. Khi đã thành ghiền rồi thì thiếu vắng nó không được. Bấy giờ nó có
một sức mạnh rất lớn. Nó khống chế sai sử chúng ta phải làm theo mệnh lệnh sai
khiến của nó. Bởi thế nên có câu nói: “Thói quen ban đầu chỉ là khách lạ qua
đường, sau trở thành người bạn thân và cuối cùng làm ông chủ khó tánh”. Khi đã
trở thành ông chủ khó tánh rồi, chúng ta khó mà cưởng lại những gì ông chủ sai
khiến. Đó là một hậu quả vô cùng tai hại.
Ngoài ra, chữ nghiệp còn được
dùng trong các ngành nghề khác. Như người cùng làm chung một nghề dạy học với
nhau, thì người ta gọi những vị ấy là bạn đồng nghiệp. Bất cứ ngành nghề nào mà
cùng làm chung với nhau, thì đều gọi là bạn đồng nghiệp cả. Nghiệp có nhiều
loại. Nếu nói một cách tổng quát, thì có hai loại chính, đó là: nghiệp lành và
nghiệp dữ. Chỗ phát ra và tạo thành nghiệp gồm có: thân, miệng, ý. Trong 3 thứ
nầy, quan trọng nhứt là ý. Ý nghiệp, là những suy tính, so đo phân biệt, Duy
Thức Học gọi nó là “liễu biệt cảnh thức”. Nó là chủ động tạo nghiệp. Khi nó nghĩ
điều lành, thì nó thúc đẩy cái miệng nói ra điều lành và cái thân làm điều lành.
Ngược lại, khi nó nghĩ điều xấu ác, thì nó xúi giục cái miệng nói điều xấu ác
hung dữ và thân hành động tàn bạo độc ác. Chính ba nghiệp nầy là động cơ tạo
thành thiên đường hay địa ngục ở nhơn gian.
Tất cả mọi khổ vui của con
người, từ cá nhân, đến đoàn thể, nói rộng ra là cả nhơn quần xã hội, đều do nó
tạo ra cả. Cho nên, trong nhà Phật rất chú ý đến 3 nghiệp quan trọng nầy. Sự tu
hành của người Phật tử, Phật dạy không cần tu đâu xa, chỉ cần tu chuyển đổi ở
nơi 3 nghiệp nầy. Chuyển đổi 3 nghiệp ác thành 3 nghiệp lành. Như trước kia,
chúng ta hay nghĩ xấu ác rồi nói năng hành động xấu ác, như miệng chửi rủa, mắng
nhiếc, thân hành động tà hạnh, cướp của, giết người v.v… nay biết tu hành, chúng
ta nên chuyển đổi lại quyết định không gây tạo những điều xấu ác đó nữa. Đó là
chúng ta khéo biết tu và khéo chuyển 3 nghiệp. Như trước kia, vì si mê khờ dại
ta đi vào con đường nghiện ngập, nay ta biết được tai hại của bệnh ghiền nầy rất
nguy hiểm, ta quyết định cai bỏ nghiện ngập, đó là ta đã chuyển nghiệp ghiền
thành hết ghiền. Khi đã hết ghiền rồi, đời ta thật vui vẻ hạnh phúc biết bao và
ta có rất nhiều tự do, không còn bị bệnh ghiền nó khống chế sai sử ta nữa. Một
cá nhân biết tu chuyển nghiệp, thì cá nhân đó được lợi lạc trong hiện tại và mai
sau. Gia đình nào biết tu chuyển nghiệp xấu thành nghiệp tốt, thì gia đình đó
được hạnh phúc, hòa thuận, êm ấm. Và từ đó, lan rộng ra xã hội được trật tự, an
bình, hạnh phúc, lợi lạc, đó là mục đích mà người Phật tử hướng đến.
Tóm
lại, tu là chuyển nghiệp. Nếu nghiệp không chuyển được thì không ai tu làm gì.
Chuyển là chuyển xấu thành tốt, chuyển ác thành thiện, chuyển tà thành chánh,
chuyển dở thành hay v.v… Sở dĩ nói chuyển nghiệp mà không nói sửa nghiệp, bởi
chữ sửa nghĩa của nó rất rộng, không sâu sắc bằng chữ chuyển. Như nhà hư, xe hư,
người ta cũng dùng chữ sửa. Vì thế, nên mới nói là đại tu, tiểu tu.
Do
đó, nên nói chuyển nghiệp mà không nói sửa nghiệp. Bởi chữ chuyển ngầm ý nói lên
bên trong nội tâm hơn là nói cái bên ngoài. Chuyển đổi từ ý niệm xấu để trở
thành ý niệm tốt. Do đó, nhà Phật nói chuyển nghiệp mà không nói sửa nghiệp là
vậy.
Mong sao Phật tử chúng ta nên ý thức sự khổ đau trong hiện tại và
mai sau mà cố gắng thường xuyên tu tạo 3 nghiệp lành. Chỉ cần gìn giữ và tu tạo
ở nơi 3 nghiệp : thân, miệng, ý cho tốt đẹp, thì bảo đảm đời ta sẽ dứt khổ. Đó
là gốc của sự tu hành. Bởi thế, nên Kinh nói: “Tam nghiệp hằng thanh tịnh, đồng
Phật vãng Tây phương”. Vãng Tây phương là không còn khổ đau nữa vậy.
Hỏi: Kính bạch Thầy,
con thường nghe nói A la hán và Bồ tát, nhưng con không hiểu giữa A la hán và Bồ
tát khác nhau như thế nào ? Kính mong Thầy từ bi giải đáp cho chúng con được
rõ.
Đáp: A la hán và Bồ tát có
nhiều điểm khác nhau:
- Khác nhau danh xưng: A la Hán,
tiếng Phạn gọi là Arahat. Bồ tát, tiếng Phạn gọi là Bodhisatva, phiên âm là Bồ
đề tát đỏa. Nói gọn là Bồ tát.
- Khác nhau về ý nghĩa: A la hán
chỉ là phiên âm từ tiếng Phạn Arahat. Chữ Arahat hay A la hán có 3 nghĩa: Sát
tặc, Vô sanh và Ứng cúng. a) Sát tặc là giết sạch hết giặc phiền não trong tâm.
Bọn giặc phiền não chúng nó hung tợn dữ dằn lắm. Những thứ phiền não gốc ngọn
gì, các Ngài cũng đều giết sạch hết, nên gọi là sát tặc.
b) Vô sanh đồng
nghĩa với Niết bàn. Nghĩa là các Ngài đã đạt được một trạng thái tâm lý yên tịnh
không còn sanh diệt nữa. Nói rõ, là các Ngài không còn sanh tử luân hồi.
c)
Ứng cúng là các Ngài thật xứng đáng cho trời người cúng dường. A la Hán có 3
nghĩa như thế.
Còn nghĩa của Bồ tát thì sao? Bồ tát có 2 nghĩa : một là
hữu tình giác, hai là giác hữu tình. Thế nào là hữu tình giác? Bồ tát cũng là
một con người như chúng ta, nhưng là một con người giác ngộ và sau khi giác ngộ,
các Ngài đem sự giác ngộ đó giáo hóa cho mọi người cũng đều được giác ngộ như
các Ngài, thì gọi các Ngài là Bồ tát. Như vậy, ai cũng có thể làm Bồ tát được
cả. Nếu chúng ta chịu khó tu học và có tấm lòng vị tha nhân ái làm lợi ích cho
mọi người, cũng đều gọi là Bồ tát. Tóm lại, Bồ tát chỉ là một con người, nhưng
là người giác ngộ, làm lợi mình và lợi người, đó là Bồ tát.
- Khác trên hình thức : Bồ tát
không nhứt thiết phải là người có hình thức xuất gia mà người tại gia vẫn làm Bồ
tát. Như vậy, Bồ tát có hai hạng: xuất gia và tại gia. Ngược lại, A la hán, thì
phải là người xuất gia, vì các Ngài thọ đại giới Tỳ kheo, hay Sa môn vậy.
- Khác biệt về giới luật : A la
hán khi tu nhân thì gọi là Tỳ kheo thọ 250 giới. Khi chứng quả gọi là A la hán.
Tức các Ngài nặng về phần giới tướng, không đặt nặng về giới tánh. Ngược lại, Bồ
tát thì nặng về phần giới tánh và có tam tụ tịnh giới. Đồng thời còn thọ 10 giới
trọng và 48 giới khinh, tổng cộng là 58 giới. Đó là nói Bồ tát xuất gia. Còn Bồ
tát tại gia thì gồm có 6 giới trọng và 28 giới khinh. Nói tam tụ tịnh giới có
nghĩa là : Tam là ba, tụ là nhóm, tịnh là trong sạch, giới gọi là ngăn cấm. Tam
tụ tịnh giới, tức là 3 nhóm giới của Bồ tát. Một là nhiếp luật nghi giới (dứt
các điều ác). Hai là nhiếp thiện pháp giới (hành các điều lành). Ba là nhiêu ích
hữu tình giới (độ tất cả chúng sanh). Đó là khác biệt về giới luật.
- Khác về tâm niệm: A la hán có
tâm lượng hẹp hòi, chỉ lo tự độ mình thôi, chứ không nghĩ đến độ người khác. Nên
các Ngài bị Phật quở là Trầm không trệ tịch hay Khôi thân diệt trí. Ngược lại,
Bồ tát thì Phật khen có tâm lượng rất rộng lớn. Các Ngài chẳng những lo phần độ
mình mà còn luôn nghĩ đến độ chúng sanh nữa.
- Khác nhau về pháp tu: A la hán
sau khi nghe Phật giảng pháp Tứ Đế: khổ, tập, diệt, đạo, rồi, các Ngài ứng dụng
tu hành. Nhờ đó mà các Ngài chứng quả A la hán. Nên còn gọi các Ngài là Thanh
văn. Tức nhờ nghe pháp âm của Phật mà tu hành chứng quả. Ngược lại Bồ tát thì
ứng dụng thật hành pháp Lục độ. Tức bố thí, trì giới, nhẫn nhục, tinh tấn, thiền
định và trí huệ.
- Khác nhau về quả vị: Hàng A la
hán chứng được quả vị Niết bàn, mà Niết bàn của các Ngài gồm có hai loại: Hữu dư
y niết bàn và Vô dư y niết bàn. Ngược lại, Bồ tát thì gọi là Vô trụ xứ niết bàn.
(Niết bàn không có chỗ nơi an trụ cố định ).
- Khác biệt về độ sanh: A la hán
sau khi chứng quả các Ngài an trụ quả vị Niết bàn mà không ra độ sanh. Ngược
lại, Bồ tát ngoài việc tự lợi, các Ngài luôn lấy việc độ sanh làm lợi ích cho
muôn loài không biết mỏi mệt.
- Khác nhau ở bản nguyện: Bản
nguyện của A la hán lúc tu nhân chỉ lo diệt trừ hết phiền não rồi an trụ Niết
bàn, không ra độ sanh. Dù có đi chăng nữa, cũng không được rộng lớn. Ngược lại,
bản nguyện của các vị Bồ tát rất rộng lớn, như Bồ tát Địa Tạng nói: “Chừng nào
địa ngục trống không, thì Ngài mới thành Phật”, nhưng biết bao giờ địa ngục mới
trống không. Thật đó là một đại nguyện vậy.
- Khác nhau ở tiến trình tu chứng:
A la hán từ địa vị phàm phu các Ngài phải trải qua các ngôi vị, như Tứ gia hạnh:
Noãn, Đảnh, Nhẫn, Thế đệ nhất và 3 quả vị: Tu đà hoàn, Tư đà hàm và A Na hàm rồi
mới đến quả vị A la hán. Ngược lại, Bồ tát thì phải tuần tự trải qua 52 ngôi vị.
Từ địa vị Thập tín, Thập trụ, Thập hạnh, Thập hồi hướng, Thập địa rồi bước lên
Đẳng giác và cuối cùng là Diệu giác tức thành Phật.
Tóm lại, Sự khác biệt giữa A la
hán và Bồ tát đại khái gồm có 10 điểm chính yếu sau đây:
- Khác về danh xưng.
- Khác về ý nghĩa.
- Khác về hình thức.
- Khác về giới luật.
- Khác về tâm niệm.
- Khác về pháp tu.
- Khác về quả vị.
- Khác về độ sanh.
- Khác về bản nguyện.
- Khác về tiến trình tu
chứng.
Hỏi: Kính bạch Thầy,
con nghe người ta nói, con người sau khi chết có một cái hồn tồn tại và rồi đi
đầu thai, chớ không có nghiệp báo gì hết. Họ nói như thế có đúng không? Kính xin
Thầy giải đáp cho chúng con được rõ.
Đáp: Vấn đề sau khi chết, linh hồn tồn tại hay không tồn tại và linh
hồn người chết sẽ đi về đâu? Đây là một vấn đề rất phức tạp, thật khó chứng
minh. Vấn đề nầy, có nhiều luận giải quan niệm khác nhau, tùy theo quan niệm
giải thích của mỗi Tôn giáo và tùy theo niềm tin của mỗi người. Tuy nhiên, người
Phật tử khi đặt định niềm tin theo một điều gì, chúng ta cần nên phối kiểm tìm
hiểu vấn đề bằng lý trí và qua sự sát nghiệm luận cứ kỹ càng, chớ không nên nghe
đâu tin đó. Nhứt là đối với những người nói bừa không có một luận cứ vững chắc
và không có một niềm tin nào cả. Tốt hơn hết là chúng ta nên cẩn trọng trong khi
nghe người khác nói.
Qua câu hỏi trên, nếu phải luận giải cặn kẻ rõ
ràng, thì thật là dài dòng. Ở đây, chúng tôi chỉ dựa theo quan điểm của Phật
giáo, mà xin được trình bày góp ý qua một vài nhận xét thô thiển của chúng tôi,
còn vấn đề tin hay không là tùy ý ở nơi mỗi người.
Bảo rằng, con người sau
khi chết còn có một cái hồn tồn tại và rồi đi đầu thai, chớ không có nghiệp báo
gì hết, theo Phật giáo, thì quan niệm lý giải đó không thể chấp nhận được. Phật
giáo không chấp nhận có một linh hồn bất tử. Vì đó là lối chấp của ngoại đạo.
Ngày xưa, thời Phật, có 2 phái ngoại đạo nêu ra 2 chủ thuyết: một là « Thường
kiến » hai là « Đoạn kiến ». Phái Thường kiến cho rằng, linh hồn con người mãi
mãi là con người, dù có tạo tội ác đến đâu, chết rồi cũng tái sinh trở lại làm
người. Ngược lại, phái Đoạn kiến thì cho rằng, con người sau khi chết là không
có linh hồn tồn tại đời sau, nghĩa là mất hẳn. Họ chấp như thế, nên Phật gọi họ
là phái Đoạn diệt hay Đoạn kiến. Vì quan niệm và tin như thế, nên họ tha hồ làm
ác, vì không có tội lỗi quả báo ở đời sau. Đây là 2 phái gây tác hại lớn làm
đại loạn trật tự an bình cho xã hội. Hai phái nầy, theo chủ trương của họ là,
không có nhân quả báo ứng. Nhưng chúng ta đừng quên rằng, nhân quả là một chân
lý phổ biến, tiềm tàng trong mọi sự vật và chi phối tất cả. Không một loài nào
thoát khỏi nhân quả. Do Phật sau khi giác ngộ chân lý, Ngài nói ra cho chúng ta
biết như thế.
Vì căn cứ theo luật nhân quả mà nhà Phật nêu ra thuyết
nghiệp báo. Hễ chúng ta gây tạo nghiệp nhân gì, sớm hay muộn gì cũng phải có kết
quả. Phật giáo không chấp nhận có một linh hồn bất tử như thế. Vì như thế là rơi
vào lối chấp thần ngã của ngoại đạo như đã nói ở trên.
Theo Phật giáo,
tất cả đều do nhân duyên sanh. Nghiệp báo cũng từ nhân duyên, nhân quả mà hình
thành. Theo Duyên khởi luận của Phật giáo, trong đó, có nêu ra thuyết A lại da
duyên khởi. Thuyết nầy thuộc Đại thừa thỉ giáo. A lại da là thức thứ tám sau
thức Mạt na. Thức nầy còn gọi là Tàng thức. Là cái thức trùm chứa tất cả chủng
tử thiện ác. Nói Tàng thức, vì thức nầy có 3 công năng: « năng tàng, sở tàng và
ngã ái chấp tàng ».
Năng tàng là thức nầy có khả năng hay dung chứa tất
cả pháp. Sở tàng là khả năng để đựng chứa chủng tử các pháp. Do 2 công năng nầy,
nên khi chúng ta gây tạo nghiệp thiện ác, thì tất cả những hạt giống thiện ác đó
đều được huân chứa vào cái kho Tạng thức nầy. Đến khi đủ nhân duyên, thì những
chủng tử ấy phát khởi hiện hành. Những chủng tử (hạt giống) được cất giữ vào
trong kho nầy gọi đó là nghiệp thức. Chính cái nghiệp thức nầy là chủ động theo
duyên mà tiếp nối thọ sanh đời sau. Nhà Phật gọi đây là tiếp nối vòng sanh tử
luân hồi trong Lục đạo ( Trời, người, A tu la, địa ngục, Ngạ quỷ, Súc sanh
).
Như vậy, theo thuyết nghiệp cảm duyên khởi và A lại da duyên khởi của
Phật giáo, thì mỗi ý nghĩ, lời nói, hành động của 3 nghiệp: thân, miệng, ý tạo
tác của chúng ta, đều được cất giữ trong cái kho Tạng thức nầy hết, không sót
mất một hạt giống thiện ác nào.
Dụ như một thửa đất chúng ta gieo nhiều
loại hạt giống khác nhau, khi mới gieo xuống ta không thấy chúng nẩy mầm lên, vì
không thấy nên ta tưởng là chúng bị mất hay không lên, nhưng khi gặp mưa ướt
đất, đủ duyên, thì chúng lại nẩy mầm lên. Khi nẩy mầm lên, thì giống nào nẩy mầm
theo giống nấy. Như hạt cam, hạt ớt, hạt ổi v.v…mỗi thứ lên khác nhau, chúng
không bao giờ lộn lạo. Khi chưa đủ duyên, chúng nằm yên đó, chớ không bao giờ
mất.
Cũng thế, nếu hiện đời, chúng ta huân tập nhiều hạt giống lành như
niệm Phật, làm lành, làm phước v.v… vào Tàng thức, thì chính những hạt giống đó
nó có công năng dẫn dắt chúng ta đến cảnh giới lành sanh ra, để tiếp tục hưởng
những quả báo tốt đẹp mà do chúng ta đã gây tạo trong hiện đời nầy. Nhà Phật gọi
đó là nghiệp dẫn. Ngược lại, nếu chúng ta tạo nghiệp ác thì cũng như thế. Nên
nói, tùy nghiệp thọ sanh là vậy. Nên biết, nghiệp là hành động lặp đi lặp lại
nhiều lần thành thói quen. Chính thói quen nầy khi thuần thục, thì nó có một sức
mạnh phi thường để tùy duyên chiêu cảm thọ sanh.
Như người ghiền cờ bạc,
họ đi kiếm nơi nào có sòng bài, thì họ nhào vô chơi. Người ghiền nhạc, thì đi
tìm phòng nhạc để ca hát v.v… Khi tập thói quen, dĩ nhiên có thói quen tốt và có
thói quen xấu. Thói quen tốt hay thói quen xấu, một khi đã tiêm nhiểm thành
ghiền nặng rồi, thì chính thói quen đó nó dẫn dắt chúng ta, tùy theo sở thích mà
chiêu cảm, Thói quen hay sở thích nào nặng (cực trọng nghiệp), thì nó có một
năng lực rất mạnh để tìm đến môi trường thích hợp mà thọ sanh, nên gọi là nghiệp
cảm. Về điểm nầy, trong Quy Sơn Cảnh Sách, Tổ Quy Sơn cũng có nói: “Như nhơn phụ
trái, cường giả tiên khiên, tâm tự đa đoan, trọng xứ thiên trụy”. Nghĩa là: Như
kẻ mắc nợ, ai mạnh kéo trước, trong tâm nhiều mối, nặng đâu sa đó.
Thường ta nghe trong kinh nói, người khi chết, thần thức xuất ra. Nói
thần thức, chính là cái nghiệp thức A lại da, nói rõ ra là những chủng tử thiện
hoặc ác đã kết thành nghiệp. Và chính nghiệp thức nầy là đầu mối của việc thọ
sanh đời sau đó vậy.
Người đời vì không biết, nên cho là có một cái linh
hồn đi đầu thai. Chữ đầu thai có nghĩa là có một cái hồn nhẩy vào cái bào thai
để thọ thai. Hiểu như thế, thì không phù hợp với hai thuyết: Nghiệp cảm và A lại
da duyên khởi của Phật giáo như đã nói ở trên. Không phải có một cái linh hồn đi
đầu nầy đầu kia để kiếm đường chui vào một chỗ nào đó. Theo thuyết A lại da
duyên khởi, thì không chấp nhận quan niệm đó. Vì trong thức nầy có đủ chủng tử
hữu lậu và chủng tử vô lậu. Chủng tử hữu lậu là những hạt giống tùy duyên mà
phát sanh ra thiên sai vạn biệt, tức hiện tượng giới; còn chủng tử vô lậu, có
thể đưa đến chỗ giải thoát.
Tóm lại, người nào đó nói rằng sau khi con
người chết, có một cái hồn tồn tại đi đầu thai và không có nghiệp báo gì hết,
thì điều nầy như chúng tôi đã tạm nêu ra đôi nét giải thích trên, thì quan niệm
đó không đúng.
Trong quyển Quy Sơn Cảnh Sách giảng giải của Thiền Sư
Thích Thanh Từ ở trang 77 có đoạn Hòa Thượng nói: “Người thế gian cho rằng mọi
người đều riêng có một linh hồn là cái tính linh khôn ngoan sáng suốt, mà đã
khôn ngoan thì sao lại chịu vào nơi khổ? Ai cũng nghĩ rằng sau khi chết linh hồn
mình sẽ sinh ra làm người nữa và chấp chặt cho linh hồn đó là mình.
Đạo
Phật thì gọi đó là tâm thức. Cái tâm thức nầy tùy theo chỗ huân tập thiện ác mà
đến, chứ không cố định. Vì không cố định nên nó không phải là cái khôn ngoan
biết lựa chọn, mà chỉ tùy nghiệp mà thôi. Tâm thức khác linh hồn ở chỗ đó. Nếu
nói chúng ta có linh hồn thì sẽ tưởng như đó là một tinh thần duy nhất, nếu là
duy nhất cố định thì thiện ác, mãi mãi không thay đổi. Nhưng tâm thức chúng ta
luôn luôn biến chuyển, gần người lành thì hấp thụ điều lành, gần kẻ ác thì hấp
thụ điều ác. Như vậy, tâm thức là một dòng thiện ác sanh diệt, chính dòng thiện
ác đó sẽ đưa chúng ta đến chỗ lành hay dữ, nghiệp nào nặng sẽ lôi mình trước, đó
là ý Tổ Quy Sơn nói “trọng xứ thiên trụy”.
Như vậy, Phật giáo không chấp
nhận có một cái linh hồn trước sau như nhứt và càng không chấp nhận cái hồn đó
đi đầu thai, như người đời lầm tưởng. Còn bảo rằng không có nghiệp báo gì hết,
quan niệm nầy, theo Phật giáo cho đó là thuộc hạng người Nhứt xiển đề, tức bất
tín cụ. Đây là hạng người họ không có lòng tin nhân quả. Chẳng những không tin
mà họ còn bài bác nhân quả nữa. Hạng người như thế, thật chúng ta khó trao đổi
luận giải với họ được.
Như đã nói, thuyết nghiệp báo là đặt định trên
chiều thời gian nhân quả mà nói. Người nói như thế, thiết nghĩ, họ chưa tìm hiểu
về thuyết nghiệp báo. Và chưa hiểu nghiệp là gì. Nếu vì chưa hiểu, thì tốt hơn
hết là nên tìm hiểu, chớ không nên nói càn bướng mà chuốc lấy khổ lụy vào thân.
Thật là một tai hại vô cùng và thật đáng thương xót lắm thay!
Hỏi: Kính bạch Thầy,
con chưa hiểu rõ giữa số mạng và nghiệp báo giống nhau hay khác nhau? Kính xin
Thầy hoan hỷ giải đáp cho con rõ. Con cám ơn Thầy.
Đáp: Theo Nho giáo, con người sinh ra đời, mỗi người đều có
số mạng hay thiên mạng định sẵn. Chính vì thế mà người ta thường nói đùa là giày
dép còn có số, Tuy đây là câu nói đùa, nhưng ngầm ý là muốn nói mỗi người đều có
số đã được một bàn tay nào đó đã đặt định an bày sẵn. Như những việc thành bại,
thạnh suy, nhục vinh, vui khổ v.v… ở đời mỗi mỗi đều do trời sắp đặt cho. Bởi
thế nên mới có câu nói: “nhứt ẩm nhứt trác giai do tiền định”. Nghĩa là một
miếng ăn một miếng uống đều đã được an bày sẵn trước.
Theo nhà Phật, thì
cho những điều xảy ra mà con người phải nhận lãnh, gọi đó là nghiệp báo. Nghiệp
báo là cái nhân do chúng ta tạo từ trong quá khứ, nay sanh ra đời phải chịu thọ
lãnh, như tật nguyền hay đau ốm v.v… Nghiệp là nhân đã tạo, báo là quả phải trả.
Như vậy, nếu đứng về mặt sẵn có, thì cả hai bên đều thừa nhận như nhau.
Sự sai biệt của mỗi người ngay từ lúc khởi đầu trong cuộc sống là một
chứng minh cho điều đó. Sự sai khác nầy do ai đặt định? Nho nói: “Số trước đã
định”. Phật nói: “Nghiệp trước gây nên”. Nghĩa là cả hai bên đều thừa nhận có
cái sẵn từ trước. Chẳng qua chỉ dùng từ ngữ diễn tả khác nhau mà thôi. Một bên
nói số, một bên nói nghiệp. Như vậy, cả hai bên giữa nhà Nho và nhà Phật chấp
nhận giống nhau. Tuy nhiên, vấn đề nầy, nếu xét sâu hơn, chúng ta thấy có rất
nhiều điểm không giống nhau. Không giống nhau về nguyên nhân, về xuất phát, về
cảm thọ, về hoán cải và về định chế v.v…
Về nguyên nhân và xuất phát.
Người tin vào số mạng hay thiên mạng, thì suốt đời ta không cải đổi được. Như số
đã định nghèo, thì suốt đời phải chịu nghèo, không thể nào cất đầu lên nổi.
Ngược lại người giàu có cũng thế. Như vậy, là ta phải bó tay cam chịu trong cái
khuôn định sẵn, suốt đời không thoát ra được. Đã thế, thì còn gì là giá trị ý
nghĩa của sự sống ? Số định cho ta vui, thì ta vui; số định cho ta khổ, thì ta
khổ. Nghĩa là mọi việc ta đều thả trôi buông xuôi theo số phận, tới đâu hay
đó.
Như thế, quả ta là kẻ bất lực, vô trách nhiệm gởi gắm thân phận mình
cho một cái viễn vông mơ hồ, mà ta không hề biết. Với tinh thần khoa học thực
tế, thì không ai có thể chấp nhận được vấn đề nầy. Thế thì, nếu xét về nguyên
nhân, xuất phát, thì ta không biết do ai gây ra, cứ đổ trút cho số phận hay trời
đã định là xong chuyện.
Phật giáo, với thuyết nghiệp báo, không chấp
nhận như thế. Theo Phật giáo, bất cứ việc gì xảy ra trên cõi đời nầy, dù nhỏ
hay lớn, dù hữu hình hay vô hình, tất cả đều phải có nguyên nhân cả. Không có
một việc gì gọi là tự nhiên hay khi không mà có. Theo thuyết nghiệp báo, thì đời
nầy ta chịu khổ đau hay vui sướng, đó là kết quả của đời trước hay nhiều đời
trước mà chính do ta đã gây ra. Không một bàn tay nào tạo thế cho ta. Mình làm
mình chịu trách nhiệm, không đổ thừa, đổ tháo cho ai cả. “Đã mang lấy nghiệp vào
thân, cũng đừng trách lẫn trời gần trời xa” (Truyện Kiều). Như đời nay sanh ra
ta bị nghèo khổ, sống trong cảnh cơ cực lầm than, bởi do đời trước ta không tu
hạnh bố thí. Thấy ai nghèo khổ đói khát, ta ngoảnh mặt làm ngơ, không một chút
từ tâm thương xót. Nêu ra một việc nhỏ như thế, để từ đó chúng ta có thể xét đến
trăm ngàn việc khác.
Về cảm thọ và hoán cải hay định chế. Người tin vào
số mạng cho rằng, làm sao đổi được số? Nhất là số trời đã định còn ai dám can
thiệp vào. Trời đã định, không dám làm trái lòng trời. Người Phật tử tin vào
thuyết nghiệp báo thì không như thế. Vì nghiệp có thể chuyển đổi được. Cho nên
nói, tu là chuyển nghiệp.
Như người xưa kia có tánh nóng nảy hay sân si,
nay biết tu chuyển đổi bỏ bớt. Hay như người nghiện ngập cờ bạc, hút xách, rượu
chè say sưa v.v… vì trước kia mê lầm nên tạo lắm điều khổ mình khổ người, nay
tỉnh giác hồi đầu hối cải sửa sai, quyết định cai bỏ nghiện ngập và từ đó, họ có
một đời sống thay đổi an vui hạnh phúc cho bản thân và gia đình.
Thế
thì, nghiệp lực có thể chuyển được từ xấu trở thành tốt, chớ không phải cố định
cứng ngắc, theo kiểu trời kêu sao dạ vậy. Nếu tin vào một định chế bất di bất
dịch, thì xã hội nầy làm sao cải tiến và mọi người phó thác cho định mệnh, không
thể nào vươn lên cầu tiến. Như thế, thì thử hỏi làm sao cá nhân, gia đình và xã
hội tiến bộ cho được? Người tin vào số mạng, theo kiểu định kiến, thì chỉ còn có
nước ngồi đó khoanh tay chờ chết, chớ làm sao cải đổi cho được. Như thế thì
trách nhiệm con người ở đâu? Và như thế, thì xã hội sẽ trở thành lạc hậu mất
rồi!
Tóm lại, giữa số mạng hay thiên mạng và nghiệp báo thật khác nhau
rất xa. Chỉ giống nhau một điểm là cái sẵn có như trên đã nói qua. Ngoài ra, tất
cả đều dị biệt. Để so sánh rõ hơn về vấn đề nầy, sau đây, chúng tôi xin trích
dẫn một đoạn so sánh phê bình giữa thuyết số mạng và nghiệp báo trong quyển sách
Hé Mở Cửa Giải Thoát do Thiền Sư Thích Thanh Từ biên soạn. Ở đoạn kết luận Phê
bình, trang 64, Hòa Thượng có nêu ra so sánh phê bình như sau: “Nói số mạng là
mơ hồ không xác thực. Nghiệp báo là thực tế rõ ràng. Thuyết số mạng đưa con
người vô trách nhiệm về hành động của mình. Nghiệp báo dạy người nhận lấy trách
nhiệm do mọi hậu quả tốt xấu đến với mình. Số mạng khiến con người thụ động,
tiêu cực phó thác liều lĩnh. Nghiệp báo xây dựng con người chủ động, tích cực,
nỗ lực và sáng tạo. Số mạng tập con người yếu đuối, an phận đầu hàng. Nghiệp báo
chỉ cho ta phải cố gắng can đảm và thăng tiến. Số mạng thích hợp với thời quân
chủ phong kiến. Nghiệp báo thích hợp với thời dân chủ tự do. Ứng dụng thuyết
nghiệp báo trong cuộc sống, chúng ta thấy mình đồ sộ hiên ngang đầy đủ quyền
năng trong cuộc kiến tạo con người và vũ trụ”.
Hỏi: Con nghe nói hộ
niệm vãng sanh, nhứt là cho người hấp hối sắp chết, nhưng con không hiểu phải hộ
niệm như thế nào mới đúng cách? và phải làm sao cho người chết được lợi lạc vãng
sanh? Kính xin Thầy hoan hỷ chỉ dạy cho chúng con được hiểu rõ.
Đáp: Đây là một vấn đề rất hệ
trọng đối với những người tu theo pháp môn Tịnh độ, niệm Phật cầu vãng sanh.
Những người mà tịnh nghiệp của họ đã thuần thục, hiện đời họ đã niệm Phật chứng
được niệm Phật Tam Muội, tức được nhất tâm bất loạn, Thánh cảnh hiện tiền rồi,
thì việc hộ niệm không cần thiết nữa. Vì họ đã vãng sanh ngay trong hiện đời
rồi. Thật ra, trong thời mạt pháp nầy, đối với hạng người nầy thật không phải dễ
có. Đó phải là bậc thượng căn thượng trí mới có được.
Ngoài ra, nếu chưa
được như thế, thì giờ phút sắp lâm chung, đối với việc hộ niệm hay trợ niệm là
điều tối thiết yếu, thiết nghĩ, chúng ta cũng cần nên tìm hiểu thật kỹ về vấn đề
nầy.
Trong khuôn khổ giới hạn của trang giấy phạm vi vấn đáp, chúng tôi
không thể nào trình bày cho tận tường chi tiết hết được. Ở đây, chúng tôi chỉ
xin được trình bày một cách khái yếu vấn đề mà thôi.
Đời người, khi sắp
mất, hay cuối nẻo đường trần có 3 lối rẽ để đi. Một là tiến thẳng lên Thánh đạo,
vãng sanh Cực Lạc tức thời, lối đi nầy chỉ dành cho những người cực thiện. Hai
là lối đi vào thiện đạo và ba là lối đi vào ác đạo. Lối đi vào thiện đạo dù có
được tốt đẹp ít khổ, nhưng vẫn còn quanh quẩn luân chuyển vào nhơn đạo hoặc
thiên đạo. Thứ ba là lối đi vào ác đạo, đây là con đường trầm luân thọ khổ muôn
kiếp, mà không một ai muốn bước chân vào. Tuy không muốn, nhưng nghiệp ác hiện
đời đã gây tạo, thì phải tránh như thế nào đây? Cho nên đối với hai hạng người
sau nầy, thì việc hộ niệm trong giờ phút sắp lâm chung thật vô cùng quan yếu.
Nhưng phải hộ niệm như thế nào để cho người sắp lâm chung mới được lợi lạc vãng
sanh? Đó là điều mà người đóng vai trò hộ niệm giúp cho những người sắp chết,
thiết nghĩ, cũng cần nên biết qua.
Hai chữ hộ niệm có nghĩa là giúp cho
người sắp chết có được chánh niệm. Chữ niệm nầy, có nghĩa là chánh niệm. Nói
cách khác là mình giúp (hộ) cho họ nhớ (niệm) Phật, tức đồng với tâm niệm Phật,
vì tâm niệm Phật là chánh nhân thành Phật. Vì muốn nhắc nhở người bệnh luôn nhớ
đến Phật, mà không nhớ đến duyên trần, vì nhớ đến duyên trần là mất chánh niệm
hay tịnh niệm, thì rất trở ngại cho việc vãng sanh. Do đó, mà người hộ niệm là
chiếc phao nổi để người bệnh sắp chết nương vào.Vì sao? Vì lúc nầy, người bệnh
tứ chi đau nhức rã rời, nếu là người bị mang chứng bệnh nan y, như ung thư chẳng
hạn, thì sự hành hạ xác thân, bởi cơn đau nhức hoành hành thật là khó tả. Do đó,
tâm thần của họ dễ bị tán loạn, dù cho bình thường, họ có công phu niệm Phật,
nhưng vì chưa đạt đến chỗ thuần thục, nên dễ bị tán tâm. Bởi thế, nên họ rất cần
người khác hộ niệm. Lúc nầy, người bệnh hoàn toàn mất hết tự chủ, tinh thần rối
loạn, nghĩ nhớ lung tung, thật khó tập trung vào câu hiệu Phật. Nên người hộ
niệm phải giúp cho họ tập trung tinh thần về với chánh niệm bằng cách chí thành
tha thiết niệm Phật.
Điều ta nên nhớ, người bệnh vừa dứt hơi thở, nhưng
chưa thật chết hẳn, thần thức chưa hoàn toàn rời khỏi thể xác, ít nhứt là 2
tiếng đồng hồ, nên giờ phút nầy, vẫn còn rất cần thiết cho việc hộ niệm, niệm
Phật.
Người bệnh được vãng sanh hay không, ngoài phần chánh nhân tu niệm
bình nhật của họ ra, phần lớn là nhờ vào giờ phút hộ niệm nầy. Do đó, những
người thân quyến hay con cháu trong gia đình, là những nhân tố chánh giúp cho
người thân của mình không bị đọa lạc vào cảnh khổ. Nếu giờ phút quan trọng nầy,
mà thân nhân hay bạn bè, không biết cách hộ niệm, chẳng những không niệm Phật
giúp cho người thân mình có thêm chánh niệm, trái lại, còn gây thêm cho họ nhiều
rối loạn, lo âu, buồn bực v.v… thì thật là tai hại nguy hiểm vô cùng. Cho nên,
nếu mọi người thật sự thương thân nhân của mình, thì chỉ nên một lòng chắp tay
tha thiết mà thành tâm niệm Phật.
Ngoài ra, không nên có thái độ hay lời
nói gây xúc phạm đến người bệnh sắp lâm chung. Vì lúc nầy hơn bao giờ hết, người
bệnh dễ hay sanh bực tức giận hờn.
Cách hay nhất trong giờ phút nầy, nên
cần có ít nhất là một người biết cách trợ niệm, để giúp đỡ chỉ bảo mọi việc cho
thân nhân và bạn bè. Người nầy rất là cần thiết. Vì thân nhân của người sắp
chết, ai nấy đều tỏ ra rất bối rối lo buồn, nên không còn đủ bình tĩnh để lo trợ
niệm giúp đỡ cho bệnh nhơn.
Thế nên, theo kinh nghiệm của chúng tôi, thì
phải có người thông hiểu mọi việc hộ niệm túc trực bên cạnh bệnh nhơn, vừa nhắc
nhở bệnh nhơn niệm Phật, vừa khuyên nhủ thức nhắc bằng những lời pháp ngữ cảnh
tỉnh, để bệnh nhơn tăng thêm đạo lực tín tâm và dễ được định tâm niệm Phật hơn.
Bởi vậy, những người hộ niệm nầy, phải được thay phiên nhau niệm Phật liên tục,
tùy hoàn cảnh mà khéo léo dùng chước phương tiện để giúp cho bệnh nhơn và trong
thân quyến. Điều nầy, thật rất là cần thiết quan trọng. Người hộ niệm phải có
tấm lòng bi cảm và hòa ái nhẫn nại đối với bệnh nhơn. Đó là thể hiện lòng từ bi
vị tha nhân ái cao cả của Bồ tát Quán Thế Âm.
Tóm lại, muốn cho việc hộ
niệm vãng sanh đạt được kết quả cao, theo thiển nghĩ của chúng tôi, cần phải hội
đủ những điều kiện cần thiết để thực hiện qua 3 yếu tố quan trọng như sau:
I. Người
hộ niệm
II. Bệnh
nhơn.
III. Thân bằng quyến thuộc.
I. Người hộ niệm.
Đối với người hộ niệm đóng
một vai trò chủ chốt rất quan trọng trong việc hộ niệm, nên cần phải thông hiểu
về việc hộ niệm nầy. Sau đây là những điều mà người hộ niệm cần biết:
1.
Nên khuyên bảo thân quyến và sắp xếp mọi việc cần thiết trong lúc hộ niệm
cho người bệnh hấp hối sắp lâm chung. Tối kỵ nhứt là gây xáo trộn khóc than
trong giờ phút nầy. Những ai không dằn lòng được xúc động, thì tốt hơn hết là
nên mời họ bước ra ngoài, đừng để bệnh nhơn nghe tiếng khóc than.
2.
Thái độ và cung cách, nhứt là lời nói đối với người bệnh phải hiền hòa
dịu ngọt, nên khuyến nhắc người bệnh nhớ niệm Phật và cần gợi lại những công
hạnh mà người bệnh đã thực hiện.
3.
Ngoài việc niệm Phật và khuyến nhắc bệnh nhơn ra, tuyệt đối không được
nói lời gì khác, mà gây cho bệnh nhơn không vui dễ mất tín tâm và tán loạn.
4.
Tùy trường hợp, hoàn cảnh nơi bệnh nhơn nằm, mà linh động niệm Phật to
tiếng hoặc nhỏ tiếng, tốt hơn hết là chỉ niệm Phật cho bệnh nhơn vừa đủ nghe,
không nhỏ quá và cũng không nên lớn tiếng quá. Theo kinh nghiệm cho biết, lúc
nầy, càng niệm lớn tiếng, bệnh nhơn càng không nghe rõ. Tốt hơn hết, là nên niệm
vừa đủ cho bệnh nhơn nghe thôi. Và khi niệm, phải niệm đủ 6 chữ : Nam Mô A Di Đà
Phật. Phải niệm chậm rãi và từng chữ cho thật rõ ràng.
5.
Phải thay phiên nhau niệm Phật liên tục không cho gián đoạn, cần khuyến
khích thân nhân cùng thay phiên nhau niệm Phật. Trong phòng bệnh, ngoài tiếng
niệm Phật ra, tuyệt đối phải giữ yên lặng, không được nói chuyện ồn ào làm loạn
tâm bệnh nhơn vô ích.
6.
Khi người bệnh đã thật sự tắt thở, cứ để như vậy mà chí thành niệm Phật
liên tục, không nên sửa làm động đậy bệnh nhơn, ít nhứt là 2 tiếng đồng hồ. Điều
nầy rất quan trọng, chúng ta cần phải lưu ý. Vì khi bệnh nhơn mới tắt thở, thần
thức chưa rời khỏi xác thân. Nên rất cẩn trọng quan tâm về vấn đề nầy. Còn nhiều
chi tiết khác, nhưng ở đây, chúng tôi chỉ xin nêu ra 6 điều quan trọng mà người
hộ niệm cần ghi nhớ trong khi hộ niệm mà thôi.
II. Bệnh nhân.
Người bệnh là yếu nhân chính
trong việc quyết định cuộc đời mình. Đây là giờ phút quan trọng để mình quyết
định cho sự chọn lựa. Nếu là một liên hữu đã phát nguyện niệm Phật cầu vãng
sanh, thì trong lúc bệnh nặng, nên buông bỏ tất cả duyên trần, không bận tâm với
bất cứ vấn đề gì, nhứt là đối với việc gia đình nhà cửa con cháu v.v… Không ai
thương mình bằng chính mình thương mình. Trước giờ phút phân ly đôi ngã, dù đó
là người thân yêu nhứt đời mình, họ cũng không thể nào thay thế được gì cho
mình.
Trong nỗi niềm cô đơn tuyệt vọng, cái chết gần kề với mình, thì
thử hỏi mình còn tham đắm luyến tiếc thứ gì nữa chớ! Nghĩ thế, mình nên dốc hết
tâm lực còn chút hơi tàn mà quyết lòng niệm Phật cầu sanh Tây phương, theo bản
nguyện sanh tiền của mình đã phát nguyện. Nên nhớ đến lời khuyên dạy chí tình
chí thiết của Hòa Thượng Thiện Đạo, vị Tổ thứ hai của Liên Tông. Ngài thường
khuyên dạy cho những người tu Tịnh độ, niệm Phật như sau: “Người niệm Phật khi
sắp mãn phần, muốn được sanh về Tịnh độ, thì điểm cần yếu là đừng sợ chết. Phải
thường nghĩ thân nầy nhơ nhớp, biết bao điều khổ lụy trói vây! Nếu bỏ được thân
huyễn hôi nhơ, sanh về Cực Lạc thọ thân kim cương thanh tịnh, sẽ thoát khỏi luân
hồi khổ thú, hưởng vô sự an vui. Ví như bỏ chiếc áo cũ rách đổi lấy đồ trân
phục, còn điều chi đáng thích ý bằng! Nghĩ như thế, buông hẳn thân tâm không còn
lo buồn tham luyến. Lúc vừa có bệnh, liền tưởng đến sự vô thường, một lòng niệm
Phật chờ chết. Nên dặn thân thuộc chớ lộ vẻ bi thương, cùng bàn việc hay dở
trong nhà. Nếu có ai đến thăm, chỉ khuyên nên vì mình niệm Phật, đừng hỏi thăm
chi khác…”.
Đó là chúng tôi trích dẫn một đoạn khuyến nhắc của Ngài, để
chúng ta nhớ đến mà hết lòng niệm Phật. Nên biết, Tổ Thiện Đạo là hóa thân của
đức Phật A Di Đà. Lời Ngài dạy thật là thiết tha bi mẫn. Đây là lời khuyên chung
của Tổ, không nhứt thiết là chỉ có liên hữu không thôi. Nếu ai nghe theo lời
khuyên dạy nầy của Ngài, mà thật tâm tha thiết hành trì, dốc lòng niệm Phật, thì
cũng được lợi lạc vãng sanh về Cực Lạc.
Xin tất cả hãy nghĩ đến tương
lai sướng hay khổ của đời mình mà tự mình phải cố gắng buông bỏ tất cả, chỉ có
một con đường trước mắt là niệm Phật cầu vãng sanh về Cực Lạc mà thôi. Hãy nhớ
đến bản nguyện của đức Từ Phụ A Di Đà lúc nào Ngài cũng sẵn sàng chờ đón chúng
ta. Đó là trọng tâm chính yếu mà người bệnh sắp lâm chung cần ghi nhớ thực hành
để được lợi lạc cho chính mình.
III. Thân bằng quyến
thuộc.
Việc hộ niệm người bệnh được vãng sanh hay không,
những người trong thân quyến đóng vai trò không kém phần quan trọng. Nếu thật sự
thương thân nhân của mình trong giờ phút quyết định cuộc đời vui hay khổ nầy, y
cứ theo lời chư Phật Tổ chỉ dạy, chúng tôi xin thành thật có đôi lời khuyến nhắc
chung qua một vài điều thiết yếu sau đây:
1.
Phải tỏ thái độ có lòng thương kính từ ái và tuyệt đối không được dùng
lời nói mất hòa khí trong gia đình. Tuyệt đối, không nên đem việc nhà ra bàn
luận. Nếu để cho người bệnh biết được những sự việc không hay xảy ra, thì sẽ gây
tác hại lớn cho việc vãng sanh, vì người bệnh sẽ phiền muộn, tham, sân, si nổi
lên dễ sa vào ác đạo như tên bắn.
2.
Phải làm và nghe theo sự thức nhắc, sắp xếp của người có trách nhiệm hộ
niệm cho thân nhân của mình. Những người nầy, họ vì thân nhân của mình mà hết
lòng hộ niệm, nên chúng ta cần tôn trọng những lời chỉ bảo của họ.
3.
Không nên kêu khóc lớn tiếng và kể lễ bất cứ điều gì, chỉ một bề niệm
Phật. Phải gắng dằn lòng xúc động trong giờ phút nầy. Nên nhớ đây là yếu tố quan
trọng mà người mới lâm chung có được vãng sanh hay không, đều tùy thuộc vào thân
quyến.
4.
Tất cả nên vì người mất mà phải thành tâm niệm Phật, tụng kinh cầu siêu
suốt trong thời gian từ khi mất cho đến trải qua 49 ngày.
5.
Trong thời gian cư tang, nên tu tạo nhiều phước lành để hồi hướng cho
người quá cố sớm được siêu sanh thoát hóa.
Riêng đối với thân hữu bạn bè, chúng ta cũng nên quan tâm lưu ý. Tục ngữ
ta có câu: “một con ngựa đau cả tàu không ăn cỏ”. Hay “nhứt gia hữu sự bá gia
ưu”. Nghĩa là: một nhà có việc trăm nhà đều quan tâm lo lắng giúp đỡ. Vì thế,
nên khi hay tin người bạn thân của mình bệnh nặng, thì bạn bè thường hay đến
thăm. Đến thăm là vì nghĩ tình thương bạn. Do đó, nếu thật thương người bạn mình
trong giờ phút quan trọng nầy, thì chỉ nên hiệp lực cùng với những người khác mà
đồng tâm niệm Phật. Nếu không quen niệm, thì chúng ta cũng không nên nói những
chuyện gì khác. Vì như thế, chỉ làm cho người bạn của mình đang nằm chờ chết
càng thêm rối loạn tinh thần mà thôi, chớ không có ích lợi gì.
Thế nên,
nếu thật sự thương bạn mình, thì chúng ta chỉ nên giữ yên lặng là tốt lắm rồi.
Được thế, thì chẳng những người bệnh được lợi ích mà những thân quyến của người
bệnh cũng mang ơn chúng ta rất nhiều. Xin tất cả hãy quan tâm cho vấn đề nầy.
Đừng vì thói quen tình cảm của mình mà gây tác hại cho người bệnh, đang cần đến
sự trợ niệm thiết thực của chúng ta. Nếu không như thế, thì rất tội nghiệp cho
người bạn của chúng ta lắm! Họ đang khao khát cần sự giúp đỡ của chúng ta, như
người sắp chết đuối mong chúng ta cứu vớt họ vậy. Mong lắm thay!
Hỏi: Kính thưa thầy,
sau khi mình chết rồi nghiệp còn hay mất ? Con chưa hiểu rõ vấn đề nầy, xin thầy
từ bi chỉ dạy.
Đáp: Tôi xin thưa ngay,
con người sau khi chết, nghiệp không bao giờ mất. Trừ phi, những người hiện đời
đã dứt sạch ý nghiệp. Nói rõ ra, là những người đã đạt đạo, thì mới thấy được:
“nghiệp tánh bổn lai không”. Tuy nhiên, nghiệp nhân đã gây, tất nhiên phải có
nghiệp quả. Dù người đó đã ngộ đạo. Trường hợp như đức Phật vẫn còn phải trả
quả. Ngài còn phải trả quả báo “kim thương mã mạch”. Và như trường hợp Tổ Huệ
Khả phải bị ngồi tù, hay Ngài Mục Kiền Liên bị đám côn đồ đánh chết. Tuy nhiên,
đối với các Ngài khi trả nghiệp thì khác hơn chúng ta. Chúng ta trả nghiệp trong
sự thống khổ kêu khóc rên la. Còn đối với các Ngài không có gì là khổ đau cả. Vì
sao? Vì các Ngài đã thấy rõ “ngũ uẩn giai không”. Đã thế, thì nói gì trả hay
không trả. Cho nên, sự trả nghiệp của các Ngài như trò chơi, không có gì phải lo
âu sợ hãi.
Nói thế, để chúng ta thấy rằng, một khi nghiệp nhân đã gây,
thì sẽ không bao giờ mất. Nếu nói như vậy, thì nghiệp không có thể chuyển được
sao? Dĩ nhiên, là chuyển được. Nếu không chuyển được, thì chúng ta tu làm gì.
Nên nhớ, chuyển là chúng ta chuyển nặng thành nhẹ. Chớ không thể nào chuyển cái
có, hoàn toàn trở thành cái không được. Kinh nói :
“Giả sử bá thiên
kiếp
Sở tác nghiệp bất vong
Nhân duyên hội ngộ
thời
Quả báo hoàn tự thọ”.
Tạm dịch :
Dù trải qua trăm ngàn
kiếp
Chỗ tạo nghiệp không mất
Khi nhân duyên đến
rồi
Quả báo tự chịu lấy.
Như thế, thì làm sao hoàn
toàn mất được. Chúng tôi xin nhắc lại, để Phật tử khỏi phải nghi ngờ, nghiệp tuy
không mất, nhưng nếu chúng ta biết tu, ăn năn sám hối, thì có thể chuyển nghiệp
quả nặng thành nghiệp quả nhẹ.
Thí như anh A vì nóng giận đánh anh B bị
trọng thương, lẽ ra, thì anh B và thân nhân của anh B sẽ tìm cách đánh trả thù
anh A cho hả giận, nhưng anh A, sau đó, biết lỗi lầm sái quấy mà anh ta đã gây
ra, anh liền đến anh B để năn nỉ, xin anh B tha lỗi. Thế là, anh B thay vì đánh
anh A để trả thù, nhưng nay, thấy anh A đã tỏ lòng ăn năn hối cải lỗi lầm, nên
anh B tha thứ. Thay vì đánh anh A, anh B chỉ dùng những lời lẽ nặng nề trách móc
anh A mà thôi. Anh B nói để cho hả cơn giận, chớ không đến nỗi phải đánh anh A
trả thù. Đó là anh A đã chuyển được cái nghiệp quả nặng thành ra cái nghiệp quả
nhẹ rồi. Chuyển nghiệp là như thế. Còn hành động anh A đánh anh B bị trọng
thương, không bao giờ mất ở trong lòng anh B. Bởi hành động đánh đập (nghiệp) đó
không bao giờ mất. Tuy anh B đã tha thứ, nhưng trong lòng anh không bao giờ
quên.
Xin nêu thêm một thí dụ nữa, như có 3 gia đình cùng tọa lạc trên
một đường phố. Trong 3 gia đình đó, ông A làm nghề thầy giáo, ông B làm nghề bác
sĩ, ông C làm nghề kỹ sư. Bỗng một hôm, cả 3 căn nhà đều bị cháy sạch hết, tất
cả đồ đạc, của cải trong nhà đều bị thiêu hủy, chỉ có những người trong 3 gia
đình đó còn sống. Như vậy, nhà cửa của cải tuy cháy hết, nhưng nghề nghiệp của 3
ông đó có cháy mất không? Ông thầy giáo vẫn tiếp tục hành nghề dạy học. Ông bác
sĩ vẫn tiếp tục hành nghề chữa bệnh và ông kỹ sư cũng vẫn tiếp tục hành nghề như
cũ.
Như thế, để chứng minh rằng, cái gì có hình tướng đều bị hư hoại,
thiêu hủy, nhưng còn cái nghề nghiệp không hình tướng kia không hề bị mất. Qua
ví dụ nầy cho chúng ta thấy, ngày mai khi thân chúng ta chết, nhưng nghiệp chúng
ta đã gây, thì không bao giờ mất, nó sẽ theo sát chúng ta như hình với bóng.
Chúng ta tu Tịnh nghiệp, thì được vãng sanh về cõi Tịnh, vì còn nghiệp, nên nói
là vãng sanh, mà không nói là Vô sanh. Do đó, nhân và quả không bao giờ sai
chạy vậy.
Đến đây, chúng tôi cũng xin nói rõ thêm, nếu không, thì khi quý
vị đọc hoặc nghe trong Chứng Đạo Ca của Ngài Vĩnh Gia Huyền Giác nói: “Sát na
diệt khước A tỳ nghiệp”. Nghĩa là, Ngài nói cái nghiệp A tỳ, tức là Vô gián địa
ngục, chỉ diệt đi trong một sát na thôi. Nếu không hiểu chỗ nầy, quý vị sẽ đâm
ra hoang mang nghi ngờ và cho rằng, có sự mâu thuẫn với nhau. Nên nhớ, Ngài
Huyền Giác nói, là Ngài đứng trên lập trường của giáo lý tối Thượng thừa, thuộc
Kinh Liểu Nghĩa. Người ta đọc câu đó mà quên câu đầu của bài Ca nói: “Chứng thật
tướng vô nhơn pháp”. Nghĩa là, người chứng được Thật Tướng, tức Vô Tướng, thì
còn gì là Nghiệp A Tỳ ? Bởi vì, đến đây là người chứng đạo, sống trọn vẹn với
cái chân lý Tuyệt Đối, nên thấy rất rõ : « Nhơn Không và Pháp Không », như vậy,
thì có gì là nghiệp với không nghiệp ? Đó là cái thấy cùng tột, vượt ngoài đối
đãi của người chứng đạo.
Như trên đã nói, đối với các Ngài thì không thấy
có, nhưng không phải là không có địa ngục A tỳ. Có là có, đối với những ai còn
si mê vọng chấp. Còn không là không, đối với những ai đã tròn chứng Pháp thân,
nghĩa là không còn vô minh vọng chấp. Hiểu như vậy, thì chúng ta sẽ không còn
nghi ngờ và cho là mâu thuẫn với nhau nữa.
Tóm lại, vì biết rõ nghiệp quả
không mất, nên người Phật tử mới gia công nỗ lực tu tạo phước lành, để mai sau
sanh về cõi lành, hưởng quả báo tốt đẹp, chớ nếu mất đi, thì ai tu tạo điều lành
làm gì. Người không tin nhân quả nghiệp báo, đối với tự thân và xã hội đều là
họa hại lớn, vì họ mãi gây tạo nghiệp ác. Một khi đã gây tạo nghiệp ác, thì vĩnh
kiếp trầm luân trong bể khổ. Thật là đau xót lắm thay!
Hỏi: Kính bạch Thầy,
nếu người sắp chết, được có nhiều người tụng kinh, niệm Phật, thì người đó niệm
Phật theo, nên sau khi chết được sanh về cảnh giới lành. Ngược lại, đối với
những người họ bị tai nạn chết bất đắc kỳ tử thì sao? Kính xin Thầy hoan hỷ giải
đáp điều nầy cho con rõ.
Đáp: Điều thắc mắc nầy,
tuy Phật tử lo hơi xa, nhưng xét kỹ ra cũng thật là chánh đáng. Nhưng Phật tử
đừng lo, vì xưa kia, ở thời Phật, cũng có một người thắc mắc hỏi Phật, y như
Phật tử hôm nay hỏi chúng tôi vậy.
Xưa kia, Ngài Ma Ha Nam là em bà con
chú bác với đức Phật. Khi đức Phật trở về hoàng cung giáo hóa trong thân tộc,
thì ông đến xin Phật cho ông quy y giữ 5 giới và tu thập thiện. Đức Phật tán
thán sự phát tâm của ông và cho ông được toại nguyện. Từ ngày đó, ông trở thành
một vị Ưu bà tắc rất thuần thành.
Một hôm, ông nêu ra vấn đề đó hỏi Phật.
Ông nghĩ rằng, cả đời vâng theo lời Phật dạy tu hành, bỗng một hôm nào đó, bất
thần xảy ra tai nạn, chết bất đắc kỳ tử, như vậy, thì thần thức sẽ sanh về đâu?
Có bị sa đọa không? Vì chết như thế, đâu có ai hộ niệm cho mình mà được siêu
thoát!
Đức Phật không trả lời thẳng câu hỏi của ông, mà đức Phật hỏi vặn
lại:
- Nầy Ma Ha Nam, giả
như có một cái cây mà nó đã nghiêng sẵn, bỗng một hôm có người đến cưa, thì cây
đó ngã về đâu ?
- Thưa Thế Tôn, cây nghiêng chiều nào, khi cưa thân
cây sẽ ngã theo chiều đó.
Phật dạy: “Cũng vậy, hàng ngày ông thường tạo nghiệp lành, khi
chết thì ông sẽ theo nghiệp lành mà tái sanh vào cõi lành. Ngược lại, nếu người
nào hàng ngày tạo nghiệp ác, thì khi chết sẽ tái sanh vào cõi ác. Không phải
chết bất đắc kỳ tử là đọa địa ngục”. Chúng ta chết nghiệp không
mất, mà thần thức theo nghiệp thiện hoặc nghiệp ác sanh vào cõi lành hay cõi dữ.
Điều quan trọng là hàng ngày chúng ta nên kiểm điểm lại mình tạo nghiệp
lành nhiều hay nghiệp ác nhiều. Hiện đời mình nặng về nghiệp gì, thì khi nhắm
mắt mình sẽ đi theo nghiệp đó.
Căn cứ theo lời Phật dạy cho ông Ma Ha
Nam ở trong Kinh A Hàm, thì chúng ta đừng lo sợ, khi chết bất đắc kỳ tử không
biết có sanh về cảnh lành hay không? Vấn đề nầy, nếu nghiệm vào đời sống thực
tế, thì chúng ta cũng thấy rõ.
Người có thói quen niệm Phật, bất thần ai
làm họ giựt mình, thì họ liền Mô Phật. Vậy tiếng Mô Phật đó, họ đâu có cần phải
suy nghĩ. Do « tập quán nghiệp và tích lũy nghiệp » hàng ngày của họ huân tập,
mà tự động họ phát ra như thế thôi. Ngược lại, người có tập quán nghiệp hay văng
tục chửi thề, bất thần có ai chọc giận họ, thì họ sẽ tự động cho văng tục bằng
tiếng chửi thề ra ngay, mà không cần phải suy nghĩ.
Lại như, hai người
cùng đi chung một đường, một người thì ghiền cờ bạc; một người thì thích chơi
kiểng. Khi đi ngang qua, có một khu vườn trưng bày đủ thứ hoa kiểng, người thích
chơi kiểng liền vội ghé vào xem. Trong khi đó, người thích chơi đỏ đen, thì
không ngó ngàng đếm xỉa gì đến vườn hoa kiểng đó, mà họ đi riết tới nhà chứa bài
để chơi. Cũng vậy, chết là một, (dụ như cùng đi chung một đường) nhưng tùy theo
nghiệp thiện ác của mỗi người mà thọ sanh có khác. Và quan trọng là ở nơi Tập
quán nghiệp và Tích lũy nghiệp. Khi hai nghiệp nầy thuần thục, sẽ đưa đến « Cực
trọng nghiệp ». Nghĩa là nghiệp nào nặng sẽ lôi đi trước. Nghiệp lành nặng sẽ
lôi người đó đi vào đường lành. Ngược lại, nghiệp ác nặng, thì cũng sẽ lôi người
đó đi vào con đường ác. Tất cả đều đi đúng theo luật nhân quả báo ứng, không ai
thưởng phạt mình cả, mà do nghiệp thiện ác của mình dẫn dắt mình đi mà
thôi.
Vậy Phật tử đừng lo sợ, cứ ráng lo tu tạo phước lành cho nhiều, thì
khi chết, cũng sẽ theo con đường lành mà đi. Tuy nó không được thắng duyên bằng
khi mình chết có người hộ niệm nhắc nhở, vì lúc đó, tín tâm hướng về Phật của
mình mạnh hơn, nên sẽ được vãng sanh về cõi Phật. Nhưng có điều, theo lời Phật
dạy cho ông Ma Ha Nam ở trên, thì chắc chắn sẽ không bị đọa vào đường ác
vậy.
Kính chúc Phật tử tinh tấn tu hành, để khỏi phải lo sợ sau khi chết
không như ý sẽ bị rơi vào đường ác.
Hỏi: Kính bạch thầy,
tục lệ đốt giấy tiền vàng mã có phải là của Phật giáo mình bày ra không? Hay là
do ai bày ra? Có một người bạn hỏi con như thế mà con không hiểu, kính xin thầy
từ bi giải đáp cho con được rõ.
Đáp: Tôi xin trả
lời khẳng định một cách dứt khoát rằng, tục lệ nầy không phải do Phật giáo bày
ra. Theo chỗ chúng tôi được biết, đây là một tục lệ có từ lâu đời trong dân
gian. Truy nguyên về nguồn gốc của tục lệ đốt giấy tiền vàng mã nầy, chúng tôi
thấy, xuất phát từ thời cổ đại trong xã hội Trung Hoa. Theo nhà tư tưởng Vương
Dư đời Đường cho rằng: “Từ thời nhà Hán, đã có tục chôn tiền và đời sau lấy giấy
thay tiền”. Theo niềm tin thuần phác của người Trung Hoa ở vào thời cổ đại thì,
người ta tin rằng, người chết không phải là mất hẳn mà biến thành quỉ (nhân tử
viết quỉ – Nguyễn Tôn Nhan, Kinh Lễ, Thiên Tế pháp, NXB. Văn Học, 1999, tr. 192
). “Quan niệm nhân tử viết quỉ” được hình thành từ thời Ngũ đại (khoảng hơn 2000
năm trước Tây lịch) Từ quan niệm nầy, người ta tin rằng, người chết cũng như
người sống, tức sự sanh như sự tử. Những gì mà người ta lúc còn sống tiêu xài
như thế nào, thì khi chết cũng cần đến như thế đó. Do tin tưởng như vậy, nên sau
khi chết đi, thân nhân của người chết họ chôn theo những vật dụng cần thiết kể
cả tiền bạc để cho người chết tiêu xài. Đây là họ biểu lộ mối thâm tình sâu đậm
khi sống sao thì lúc chết cũng như thế.
Theo các nhà khảo cổ, họ đã khám
phá từ những cuộc khai quật và đã xác quyết điều nầy. Nhưng về sau, người ta
thấy rằng, việc chôn theo các đồ vật dụng và tiền bạc thiệt, thì quá lãng phí,
cho nên dần dần người ta mới bày ra cách sử dụng những đồ vật dụng và tiền bạc
làm đồ giả, giấy giả, để cho người chết tiêu xài.
Như vậy, việc đốt giấy
tiền vàng mã là tập tục của người Trung Hoa có nguồn gốc từ thời cổ đại. Dĩ
nhiên, tục lệ nầy có tác động ảnh hưởng rất lớn trong tinh thần biểu lộ tình cảm
sâu sắc của người dân Trung Hoa. Từ đó lan rộng ảnh hưởng đến những quốc gia
chịu ảnh hưởng nếp sống văn minh văn hóa của họ. Việt Nam là một trong những
nước chịu ảnh hưởng sâu đậm nhứt, vì đất nước ta đã trải qua một thời gian dài
bị họ cai trị.
Cần nói rõ tập tục nầy, theo cái nhìn của Phật giáo, thì
đây là một việc làm lãng phí tốn kém vô ích. Vì Phật giáo quan niệm, người chết
chậm nhất là sau 49 ngày nhất định sẽ tùy nghiệp thác sinh vào những cảnh giới
thiện ác khác nhau, do hiện đời người đó đã gây tạo. Cảnh giới khác nhau, thì
vật dụng của mỗi loài tùy nghiệp thức, mà họ cũng thọ dụng khác nhau. Do đó,
không thể đem những vật dụng ở cõi người mà cung cấp cho những chúng sinh ở các
cõi khác. Như thế, thì làm sao họ thụ hưởng cho được?
Thí dụ cùng là loài
người sống chung trên một trái đất, chỉ khu biệt khác nhau ranh giới thôi, ấy
thế mà giữa tiền của nước nầy, không thể mang sang qua nước khác mà có thể xài
được, muốn tiêu xài, cần phải đổi ra. Như thế, thì thử hỏi tiền bằng giấy đốt ra
thành tro bay hết, làm sao mà người chết nhận để tiêu xài được? Đây chẳng qua,
là để biểu lộ tấm lòng thương tưởng hiếu thảo của người còn sống đối với người
đã khuất bóng. Việc làm nầy, xuất phát từ nỗi lòng ước nguyện thành kính của
người sống muốn cho người chết được đầy đủ an vui. Nhưng đối với Phật giáo,
hoàn toàn không chấp nhận việc làm nầy. Vì nó không đem lại lợi lạc gì cho người
chết, mà chỉ lãng phí tiền của, công sức và gây thêm ô nhiểm môi sinh, nhiều khi
bất cẩn sẽ gây ra tai nạn hỏa hoạn nữa không chừng.
Đối với những Phật tử
vì chưa thông hiểu giáo lý Phật dạy và chưa có một niềm tin nhân quả thấu đáo
sáng suốt, nên có đôi khi cũng hay đốt giấy tiền vàng mã cho người chết. Thay
vì, bỏ tiền ra mua đốt giấy tiền vàng mã, thì tại sao chúng ta không làm những
việc khác có lợi ích cụ thể thiết thực hơn như mãi vật phóng sinh, bố thí giúp
cho những kẻ tàn tật nghèo đói v.v… ? Đem những việc làm nầy, hồi hướng phước
đức cho hương linh người chết, thì người chết sẽ hưởng được lợi lạc biết bao!
Đây mới là việc làm chánh lý “âm dương lưỡng lợi”, đúng theo quan điểm từ bi và
trí tuệ của đạo Phật. Là Phật tử, chúng ta nên nghe theo lời Phật Tổ dạy mà
tránh những việc làm mê tín vô ích, chỉ có gây thêm thiệt hại cho mình mà
thôi.
Hỏi: Kính bạch thầy,
lâu nay con có một thắc mắc, quý thầy thường dạy, người Phật tử sau khi quy y,
trong nhà chỉ thờ Phật thôi. Thế nhưng, con thấy có nhiều Phật tử trong nhà vẫn
còn thờ ông Địa và ông Thần Tài. Con muốn biết nguồn gốc ông Địa và ông Thần Tài
như thế nào mà người Phật tử phải thờ? Và thờ như thế có lỗi gì không? Kính mong
thầy hoan hỷ giải đáp cho con hiểu.
Đáp: Qua câu hỏi
của Phật tử, Phật tử chỉ nêu ra trong phạm vi Phật tử của mình, nên chúng tôi
cũng chỉ xin trả lời và nhắc nhở trong phạm vi giới hạn của Phật tử mình thôi.
Ngoài ra, thì chúng tôi không dám có ý đề cập đến bất cứ ai. Đó là chúng tôi tôn
trọng niềm tin của mỗi người.
Có nhiều Phật tử quy y mà không quan tâm
ghi nhớ những lời quý thầy giảng dạy trong khi làm lễ quy y. Khi quy y, quý thầy
y theo Kinh có nêu ra và chỉ dạy rất rõ: Trong Tam quy y, quy y đầu tiên là quy
y Phật. Quy y Phật, thì người Phật tử nguyện suốt đời chỉ quy y Phật thôi, tuyệt
đối, không được quy y Thiên, Thần, Quỷ, Vật. Đó là lời phát nguyện của Phật tử
nói trước Tam Bảo.
Thế mà, sau khi quy y rồi, có lẽ, một, là vì lu bu
bận rộn lo tính toán với nhiều công việc làm ăn, nên Phật tử đó quên những gì mà
mình đã phát nguyện, nay lại thỉnh ông Địa và ông Thần Tài về thờ trong nhà.
Hai, là vẫn nhớ, nhưng vì không bỏ được cái tập tục thờ cúng các vị Thần nầy. Vì
muốn thờ các vị Thần nầy phụ lực với Phật phò hộ thêm cho mình và gia đình luôn
được bình an, mua may bán đắt, tiền vô như nước.
Nếu quả thật thờ Thần
Tài mà ổng hộ độ cho mình được giàu có, tiền vô trong túi ào ào, thì mấy nhà sản
xuất ông Thần Tài chắc là họ phải giàu to, trên đời không ai sánh kịp. Thử hỏi
mấy ông đó, có thật giàu to không? Và thật sự ông Thần Tài có phò hộ cho mấy ổng
không? Hay là mấy ông đó cũng phải làm ăn trối chết mới kiếm ra tiền.
Nói
thế, để Phật tử thấy rằng, tuy Phật tử đó đã quy y Tam Bảo, nhưng lòng tin Tam
Bảo và tin nhân quả không được vững chắc. Đây cũng là bệnh chung của đa số Phật
tử chúng ta chưa có đủ niềm tin nơi Tam Bảo và lý nhân quả nên mới có tình trạng
thờ ông nầy ông kia.
Trở lại vấn đề, Phật tử hỏi về nguồn gốc của hai ông
nầy, theo chỗ tìm hiểu của tôi, thì cho đến hôm nay, người ta cũng chưa khẳng
quyết rõ ràng về nguyên lai của hai vị Thần nầy. Đại khái, có nhiều thuyết quan
điểm khác nhau. Ở đây, tôi chỉ xin nêu ra một số nét chung về xuất xứ của tập
tục thờ tự nầy. Thật ra, tập tục thờ Thần đối với người Việt Nam cũng đã có từ
lâu đời. Có thể nói, từ khi có người Việt là đã có đạo thờ Thần. Cũng như các
dân tộc khác, người Việt Nam quan niệm và tin tưởng mỗi một hiện tượng là có một
vị Thần ngự trị cai quản. Như Thần Thổ Địa hay còn gọi là Thổ Công là vị Thần
cai quản đất đai trong khu vực vườn tược nhà cửa. Trong dân gian có câu: “Đất có
Thổ Công, sông có Hà Bá”. Ngoài Thổ Công, các vị Thần khác cũng được người ta
thờ tại nhà như Thần Tài, Tiên Sư, Tiên Chủ, Đức Thánh Quan v.v…
Thổ Công
là một vị Thần được dân gian thờ cúng rất quan trọng. Vì vị Thần nầy trông coi
gia đình, dự định họa phúc. Trong gia đình muốn được bình an, và ruộng vườn muốn
được sung túc, tất cả đều do Thần Thổ Công trông coi và phò hộ. Về hình tượng
tôn thờ, có khi là một ông già to béo (ông Địa) bụng phệ, vẻ mặt hiền lành,
miệng cười thoải mái. Có lúc, tượng Thổ Địa được thể hiện dưới hình thức râu tóc
bạc phơ, mặc áo dài, đội mũ mỏ quạ, râu trắng như cước. Sở dĩ có những hình
tượng sai khác như thế, là do ảnh hưởng văn hóa của từng khu vực. Đạo giáo rất
coi trọng và siêng năng thờ cúng vị Thần nầy.
Còn Thần Tài, theo tập tục
dân gian cho rằng, vị Thần nầy đem lại tài lộc cho mọi người. Thông thường những
nhà kinh doanh thương mãi, người ta rất quý trọng thờ vị Thần nầy. Đây là một
tập quán tín vọng, xưa bày nay theo, cứ thế mà thờ, còn việc linh ứng có không
tùy ở nơi người tin. Về bàn thờ của 2 vị Thần nầy, người ta chỉ thờ ở một góc
khuất nào đó trong nhà hay trong shop, không cần phải bài trí ở chỗ cao ráo.
Thường ở Việt Nam, có một số nơi, người ta thờ chung hai vị Thần nầy, chớ không
thờ tách riêng, vì theo họ, tài và lợi phải đi đôi với nhau. Thổ Công thuộc về
lợi, Thần Tài thuộc về tài. Khi thờ chung, chúng ta thấy có đôi câu đối dán
trước bàn thờ hai ông như thế nầy: “Thổ năng sinh bạch ngọc, Địa khả xuất hoàng
kim”. Nghĩa là : Đất thường sinh ngọc tốt, vàng ròng cũng từ đất mà
ra.
Rãi rác trong các Kinh điển Phật giáo, đôi khi cũng có đề cập đến các
vị Thần. Như Kinh Địa Tạng cũng có nêu ra rất nhiều vị Thần. Tuy nhiên, theo
Phật giáo, Quỷ Thần cũng là một trong nhiều loài chúng sanh. Cho nên, Phật dạy
người Phật tử không được quy y với các vị Quỷ Thần. Người Phật tử, sau khi quy y
Tam Bảo, trong nhà chỉ nên thiết lập một bàn thờ Phật và nếu có thờ thêm, thì
cũng chỉ thờ tổ tiên, ông bà, hay cha mẹ mà thôi. Ngoài ra, không nên thờ bất cứ
vị Thần nào khác. Vì thờ như thế, là trái với lời Phật Tổ dạy. Đã chống trái
lại, tất nhiên, là mình đã có lỗi rồi. Nếu là Phật tử, thì chúng ta nên lưu tâm
về vấn đề nầy. Có thế, thì chúng ta mới xứng danh mình là người Phật tử chơn
chánh tu học Phật vậy.
Hỏi: Kính bạch thầy,
con thấy có nhiều gia đình Phật tử, vợ chồng cũng có học thức cao, kinh tế gia
đình của họ cũng khá đầy đủ, nhưng không hiểu sao gia đình của họ không có hạnh
phúc. Vợ chồng cứ gây gổ lục đục nhau hoài. Như vậy, có phải là do tuổi tác của
họ không hợp? Hay là do duyên số, định nghiệp của họ, nên họ phải chịu quả báo
như vậy. Kính xin Thầy giải thích cho con được rõ, trường hợp nầy như thế nào
?
Đáp: Đây là
trường hợp hầu như đại đa số gia đình không ít thì nhiều đều vướng phải. Vấn đề
hạnh phúc hôn nhân không thể hoàn toàn đặt định trên vấn đề kiến thức, lại càng
không phải do tuổi tác hay kinh tế vật chất tạo nên. Nếu đặt định tin tưởng như
thế, chưa đủ yếu tố để xây dựng hạnh phúc gia đình. Học thức cao, kinh tế đầy
đủ, cũng chỉ là một trong nhiều yếu tố khác. Mặc dù hai yếu tố nầy rất cần thiết
trong đời sống lứa đôi. Ngoài hai yếu tố nầy ra, nó còn đòi hỏi nhiều yếu tố
khác nữa. Theo Phật giáo, là cần phải hội đủ nhân duyên. Nói đến nhân duyên, tất
nhiên, phải có chánh nhân và trợ nhân hay trợ duyên. Thí dụ hiểu và thương là
chánh nhân. Ngoài ra, những yếu tố khác có thể nói đều là trợ duyên.
Ở
đây, thiết nghĩ, chúng tôi cũng cần nói rõ minh định lập trường của Phật giáo
trước sau như một. Phật giáo, ngoài việc chủ xướng đề cao lý nhân quả ra, Phật
giáo không bao giờ chủ trương người Phật tử tin vào những điều gì khác, có tánh
cách tà tín, nhứt là vấn đề bói toán, xem tuổi tác và ngày giờ tốt xấu để phán
xét, đoán định vận mạng nơi quá khứ, hiện tại, vị lai. Phật giáo chủ trương và
luôn khuyến khích người Phật tử tin sâu lý nhân quả nghiệp báo, với mục đích là
để chúng ta tìm ra nguyên nhân hình thành ác nghiệp, để từ đó tìm mọi phương
cách khắc phục, hoán cải, những nhân xấu để trở thành nhân tốt. Đồng thời, cũng
chuyển hóa những ác nghiệp trở thành thiện nghiệp. Có thế, thì mới cải thiện
được đời sống của chúng ta ngày càng thăng hoa tốt đẹp hơn .
Do đó, theo
Phật giáo, những chuyện xảy ra cơm không lành canh không ngọt, mất hòa khí trong
gia đình, không phải là do tuổi tác không hợp, mà là do tập khí chủng nghiệp của
mỗi người huân tập ở những môi trường sống khác nhau, mà người ta thường nói là
tánh tình không hợp. Khi nói tánh tình không hợp, ta phải xét tìm nguyên nhân lý
do tại sao? Nếu bảo rằng, do tuổi tác, thì lẽ ra từ đầu chí cuối phải là xung
khắc luôn luôn, chớ tại sao khi hợp khi khắc? Khi vui thì hợp, khi buồn thì
khắc. Khi vừa ý thì hợp, khi trái ý thì khắc. Như vậy, sự xung khắc bất hòa nầy
do đâu? Tại sao mỗi người không chịu tìm hiểu lại chính mình mà đổ thừa cho tuổi
tác?
Từ nhỏ đến lớn, trước khi thành vợ chồng, mỗi người có một đời sống
hoàn cảnh khác nhau. Không ai hoàn toàn giống ai. Chỉ hợp nhau ở một khía cạnh
nào đó, như trình độ học vấn, sở thích, cá tánh… Đây mới chỉ là hợp nhau trong
bước đầu. Hợp nhau trong cái thuở ban đầu lưu luyến ấy. Bước đầu bao giờ cũng
rất là đẹp. Vì hai bên đều giữ kín những tật tánh xấu của mình. Không ai dám để
lộ ra cái chân tướng của mình cho đối phương biết rõ. Nhưng khi thành vợ chồng
chung sống với nhau một thời gian, bấy giờ nó mới hiện ra rất nhiều thứ không
hợp. Những thứ không hợp nầy, nó ẩn khuất tiềm tàng sâu kín, mà cả hai khó tìm
thấy nhau. Nếu biết rõ nhau ngay từ lúc đầu, thì nguyện ước hôn nhân khó thành.
Cho nên, cả hai đều phải che giấu.
Nhưng khi sống chung, thì biệt nghiệp
cá tánh của mỗi người đều hiện rõ. Từ đó, cả hai mới nhận thấy có nhiều điểm bất
đồng. Và mọi việc không còn như ý muốn ban đầu. Và cũng từ đó chiến tranh lạnh
bắt đầu có cơ bộc phát. Vậy nguyên nhân bất hòa gây ra chiến tranh nầy do đâu?
Vì cả hai không chịu tìm hiểu, bởi tìm hiểu thì mỗi người sẽ để lộ chân tướng
xấu của mình ra, rồi vì bản ngã, vì tự ái, nên bây giờ chỉ còn có cách đổ thừa
cho tuổi tác, cho ông tơ bà nguyệt se duyên không đúng, hay là do duyên nghiệp
trớ trêu v.v… Nghĩa là phải tìm đủ mọi cách để chạy tội đổ thừa trách nhiệm cho
kỳ được, chớ không ai chịu tìm hiểu lại lỗi lầm của chính mình. Phật giáo, với
cái nhìn của tuệ giác, không thể chấp nhận cho việc tránh né đổ thừa nầy.
Thử hỏi trên đời có ai làm vừa ý mình hết không? Chính mình có đôi khi
còn không vừa ý với chính mình, thì có ai mà làm vừa ý mình. Như vậy, rõ ràng
không phải do tuổi tác xung khắc mà là do nhiều yếu tố khác. Yếu tố nào gây ra
sự bất hòa? Đó là điều mà người Phật tử cần phải truy nguyên tận nguồn gốc của
sự bất hòa đó. Trên đời nầy, không có gì là không có nguyên nhân. Thường chúng
ta hay mắc phải chứng bệnh chủ quan. Mà bệnh chủ quan là con đẻ của bệnh chấp
ngã. Vì chấp ngã, nên cái gì mình cũng đúng hết. Mọi lỗi lầm đều do người kia
gây ra, mà chúng ta không chịu tìm hiểu căn nguyên vấn đề của chính mình.
Đạo Phật dạy rằng, sự sống hình thành bởi nghiệp và chính nghiệp trở lại
chi phối đời sống của ta. Như người có tánh nóng nảy, đụng tới là lửa sân hận
nổi lên đốt cháy người khác. Tánh nóng nảy, đó là một tập khí do huân tập mà có,
tự tánh của nó là không. Vì vậy, cho nên khi gặp nghịch duyên bất như ý là nổi
sân lên, đến khi vừa ý, thì lại êm dịu.
Như vậy, tánh nóng nảy kia đâu
phải là có thật. Tuy nó không thật, nhưng chính nó lại là nguyên nhân chi phối
đời sống chúng ta. Hạnh phúc bị đổ vở, phần lớn cũng do một trong hai người
thiếu sự bình tĩnh. Từ mất bình tĩnh, thiếu sáng suốt, cho nên lửa sân nổi lên
đốt cháy hoành hành. Thế là từ việc bé xé thành to. Do đó, Phật dạy, người Phật
tử cần phải thường xuyên tu tập để chuyển hóa thân tâm.
Muốn chuyển hóa
thân tâm, từ những hạt giống xấu trở thành những hạt giống tốt, thì cần phải có
trí huệ. Trí huệ hay chánh niệm rất thiết yếu trong đời sống. Khi có trí huệ hay
chánh niệm kịp thời can thiệp, thì chắc chắn những hậu quả không tốt khó có thể
xảy ra. Khi sự việc xảy ra, ta phải tìm rõ nguyên nhân, chớ không nên đổ thừa
bừa bãi. Tại sao phải nổi nóng gây ra mất hòa khí trong gia đình? Do nguyên nhân
nào? Do tuổi tác hay do tánh nóng? Hay do những thứ gì khác, mà mình không chịu
tìm ra. Tại sao mình hay đổ thừa người khác? Lý do nào mình hay đổ trút tội lỗi
lên đầu người ta?
Khi hai người bất hòa, hãy bình tĩnh ngồi xuống để tư
duy tìm rõ nguyên nhân trong tinh thần hòa giải, hòa hợp để tìm cách thiết lập
cảm thông, chớ không nên tranh nhau ăn thua đủ. Có tìm ra nguyên nhân, thì mới
có hiểu và cảm thông nhau và từ đó mới có thể hóa giải mọi gút mắc bất hòa để
rồi yêu thương quý kính nhau. Nếu thiếu hai yếu tố “Hiểu” và “Thương” nầy, thì
khó có thể cởi mở, hỷ xả sống chung hòa hợp với nhau được.
Đời sống là
một chuỗi dài trả nghiệp và gây nghiệp. Nghiệp đã gây tạo từ quá khứ và trong
hiện tại, tất nhiên, không thể không trả. Nhưng nghiệp, ta có thể chuyển được,
một khi đã tìm rõ nguyên nhân tác nghiệp. Tính chất cơ bản của nghiệp là bất
định tính. Nghiệp luôn luôn chuyển biến theo chiều hướng thiện hoặc ác, tùy theo
hành động của thân, khẩu, ý mà mỗi cá nhân gây ra. Dù rằng sự đổ vở hôn nhân,
tuy có sự can dự vào của nghiệp nhân quá khứ, nhưng đó chưa phải là hoàn toàn
chi phối quyết định tất cả. Mà phần lớn là do nghiệp nhân hiện tại gây nên. Cho
nên, muốn tìm hiểu về nghiệp phải căn cứ trên chiều thời gian. Mà thời gian hiện
tại mới là điều quan trọng để chúng ta chỉnh hướng cho hiện tại và tương
lai.
Tóm lại, vấn đề hạnh phúc gia đình, cần nên cư xử tế nhị trong nhiều
vấn đề. Mỗi người cần phải có cái nhìn sắc bén bằng tuệ giác trong việc cư xử
với nhau. Vì sống chung với nhau không sao tránh khỏi những cá tánh bất đồng. Sự
bất đồng đó, muốn dung hợp được, chỉ có một nhịp cầu duy nhứt nối liền hai
đầu lại với nhau, đó là “Hiểu” và “Thương”. Có hiểu và thương thì mới có
tương kính và nhường nhịn nhau. Thiếu nhịp cầu nầy, thật khó có sự cảm
thông. Không cảm thông nhau, rất khó hòa hợp. Vì có tìm hiểu tánh tình, sở
thích, và những cá tánh dị biệt khác, thì mới cảm thông và thương yêu nhau hơn.
Từ đó mới có thể chuyển hóa mọi mâu thuẫn, xung khắc bất đồng cùng chảy về một
dòng suối yêu thương và hạnh phúc. Có thế, thì người Phật tử mới có kỳ vọng xây
dựng vững chắc được mái ấm hạnh phúc gia đình. Có hạnh phúc mới có an hưởng
những niềm vui của những ngày tháng sống tạm bợ trên cuộc đời đầy khổ đau hệ lụy
nầy.
Hỏi: Kính bạch thầy,
con thấy thỉnh thoảng có những cặp hôn nhân làm lễ kết hôn ở chùa. Con không
hiểu ý nghĩa tại sao trong chùa lại có làm lễ kết hôn như thế? Kính xin thầy
giải đáp cho con hiểu.
Đáp: Hôn nhân,
đối với tổ tiên ta ngày xưa, được xem rất là quan trọng. Việc định vợ gả chồng
là chuyện trăm năm, nên phải có sự chọn lựa kỹ càng. Có nhiều gia đình giàu có
sang trọng, họ thường chọn môn đăng hộ đối. Cho nên, một lễ cưới ngày xưa rất là
rườm rà, đủ thứ lễ nghĩa. Ngày nay, người ta đơn giản đi rất nhiều. Đại khái chỉ
còn giữ tập tục 2 lễ chánh thức, đó là lễ hỏi và lễ cưới.
Ở Việt Nam,
việc làm lễ cưới tại chùa, rất hiếm thấy. Nhưng từ khi người Việt mình ra hải
ngoại đến giờ, thì việc làm lễ cưới tại chùa dường như không còn xa lạ đối với
người Việt mình nữa. Sở dĩ người Phật tử tổ chức lễ cưới trong chùa, theo chỗ
chúng tôi được biết thì, cũng có nhiều lý do. Trước hết, cần nói rõ, Phật giáo
không có một nghi thức cố định cho lễ cưới nầy. Lễ nầy, theo Phật giáo gọi là lễ
“hằng thuận”. Tùy thời gian và hoàn cảnh ở mỗi nơi mà chư Tăng Ni linh động hành
lễ cho nó thích hợp.
Đối với người Việt tỵ nạn ly hương, thật đây là một
hoàn cảnh mà tận thâm tâm của mỗi người không ai muốn xa quê hương xứ sở của
mình. Nhưng vì hoàn cảnh mà phải bỏ nước ra đi. Khi đến xứ lạ quê người, bao
nhiêu tình cảm yêu thương gắn bó đối với quê hương, xóm giềng, chùa chiền đã mất
mát đi quá nhiều. Do đó, người Phật tử muốn tìm lại cái không khí mái ấm gia
đình của quê hương thân thiết ngày nào trong tình tự hài hòa của một dân tộc,
thì không đâu hơn bằng mái ấm đầy tình người của một ngôi chùa. Vì:
“Mái
chùa che chở hồn dân tộc,
Nếp sống muôn đời của tổ tông”.
Do đó, mà
sự tổ chức một lễ cưới tại chùa cũng mang lại nhiều ý nghĩa cho đời sống tâm
linh của chú rể và cô dâu sau nầy.
Buổi lễ diễn ra trước sự chứng kiến
của hai họ và trước Tam Bảo chứng minh, nhứt là lại được nghe những điều giảng
dạy về đạo đức làm người trong đời sống hôn nhân theo tinh thần Phật dạy trong
Kinh Thiện Sanh của chư Tăng Ni. Từ đó, sẽ gây một ấn tượng sâu đậm thêm trong
việc đối xử của đôi nam nữ sau nầy, nhứt là, ý nghĩa rất sâu xa của chiếc
nhẫn.
Khi chú rể và cô dâu trao nhẫn cưới cho nhau, điều đó nói lên, biểu
trưng cho việc cư xử trong tinh thần nhường nhịn yêu thương tương kính lẫn nhau
của hai người. Cuộc sống lứa đôi nếu thiếu đi yếu tính nầy, thì khó có thể xây
dựng được hạnh phúc lâu bền. Do đó, khi hai bên trao nhẫn cho nhau, dưới sự
chứng minh của Tam Bảo và hai họ, thì đây quả là một điều mang ý nghĩa thật hết
sức quan trọng. Vì thế mới gọi đây là lễ hằng thuận. Hằng là luôn luôn, thuận là
hòa thuận. Muốn luôn luôn hòa thuận với nhau, thì cả hai đều phải biết tương
kính nhường nhịn nhau. Đó cũng là ý nghĩa của chiếc nhẫn mà tổ tiên ta đã bày ra
cho mọi người noi theo.
Ngoài ra, còn có việc ký hôn thú cho hôn nhân.
Nhưng điều nầy, theo tôi, không quan trọng lắm. Điều quan trọng là làm sao cho
đôi nam nữ hiểu được ý nghĩa của đời sống lứa đôi trong tinh thần yêu thương hòa
kính theo những lời Phật dạy. Đó mới là trọng tâm ý nghĩa của buổi lễ. Và đó
mới thật sự có tác động mạnh trong đời sống tâm linh của đôi nam nữ sau
nầy.
Tóm lại, việc tổ chức một nghi thức đơn giản cho lễ cưới của người
Phật tử trong chùa, mặc dù, đây không phải là một truyền thống của Phật giáo,
nhưng nó cũng nói lên một ý nghĩa đặc thù trong chiều hướng xây dựng hạnh phúc
gia đình trong tinh thần yêu thương qua nếp sống cư xử hòa kính của người Phật
tử. Những lời phát nguyện trước Tam Bảo của hai người, nó có một tác động rất
mạnh mẽ cho đời sống tâm linh về sau. Vì thế, mà việc tổ chức lễ cưới trong
chùa, nó cũng mang lại nhiều ý nghĩa tốt đẹp và rất là hữu ích vậy.
Hỏi: Kính bạch thầy,
hiến cơ phận là một việc làm rất cao quý, nhưng là phàm phu như chúng con thì
việc làm nầy có lợi hại thế nào? Vì theo lời Thầy Tổ dạy là sau khi chết, thần
thức chưa rời khỏi xác thân, thì dễ sanh tâm sân hận, nếu thân thể bị xúc chạm.
Kính xin thầy cho con biết, việc làm nầy như thế nào mới được vẹn
toàn?
Đáp: Việc hiến
cơ phận trong thân thể sau khi chết là do sự phát nguyện của đương sự. Nghĩa cử
cao đẹp nầy, không phải ai cũng có thể làm được. Đây là hạnh bố thí rộng lớn của
Bồ tát. Vì bố thí có nội tài và ngoại tài. Ngoại tài là cho những vật dụng ngoài
thân mình, như tiền bạc của cải v.v… Ngược lại, nội tài là bố thí những bộ phận
trong cơ thể, như hiến máu hay bất cứ một bộ phận nào khác còn lành mạnh.
Nói về lợi, thì sau khi chết, dù thiêu hay chôn thân thể người ta cũng
phải tan rã. Thay vì tan rã một cách vô ích, người ta lại tình nguyện cho những
bộ phận nào đó còn tốt trong thân thể của họ, để cho các nhà y khoa nghiên cứu,
thí nghiệm rồi đem ra chữa trị giúp người. Đó là một điều rất hữu ích cho nhơn
loại. Phải nói, đây là một hạnh nguyện rộng lớn của Bồ tát mà người thường không
thể làm được. Vì Bồ tát khi còn sống, các Ngài lợi dụng cái thân thể còn mạnh
khỏe để làm lợi ích cho tha nhân, đến khi chết, các Ngài cũng nghĩ đến mọi người
mà hiến bộ phận trong thân thể để cứu mạng sống cho những ai không may bị mang
bệnh nặng hiểm nghèo.
Một việc làm do phát tâm nguyện vị tha cao cả như
thế, thì thử hỏi làm gì có lòng sân hận mà có hại? Nếu có hại, với điều kiện là
người đó không có sự phát nguyện mà người ta tự nhiên mổ xẻ cắt xén lấy một bộ
phận nào đó trong người của họ, thì điều đó mới thật sự là xúc chạm gây ra tai
hại cho người mới chết. Và như thế, thì chắc chắn là thần thức của người mới
chết đó, sẽ sân hận mang lại hậu quả không tốt. Điều đó, thì rất là tai hại.
Bằng ngược lại, thì không có gì là tai hại cả. Chẳng những không hại mà nó còn
mang lại một lợi ích thiết thực rất lớn cho người sống, vì đã cứu được mạng
người.
Đối với hạng người tầm thường, vì ngu si chấp ngã quá nặng, nên
khi còn sống thì họ một bề chỉ nghĩ đến những điều gì có lợi lộc cho riêng mình,
cung phụng cho thân thể đủ mọi thứ nhu cầu sung túc, đến sau khi chết, cũng vẫn
còn luyến tiếc thân thể, không muốn cho thân thể bị hư hoại. Đó là hạng người
quá ích kỷ, chỉ biết có mình mà không nghĩ đến ai. Họ coi thân thể của họ nặng
hơn núi Tu di. Người như thế, khi còn sống cũng không làm điều gì lợi ích cho
ai, dù là một việc làm rất nhỏ nhặt cũng không có. Hạng người như thế quả họ
sống không có ích lợi gì cho nhân quần xã hội cả.
Trong xã hội, ta thấy
có lắm người giàu có, tiền kho bạc đụng, nhưng vì không có từ tâm, nên họ không
bao giờ biết thương xót cứu giúp ai cả. Khi còn sống, thì họ lo xây dựng cơ đồ
sự nghiệp của họ cho thật vững chắc, ai chết mặc ai, đến khi gần chết, họ trăn
trối lại cho con cháu phải xây lăng mộ cho họ thật kiên cố sang trọng. Dù biết
trước rằng, đó chỉ là chôn cất một cái thây thúi. Đó là hạng người mà Phật gọi
là tham si chấp ngã quá nặng.
Ngược lại, đối với những người mà họ coi
thường bản ngã, sống, thì làm lợi ích cho mọi người, đến khi chết, họ cũng vẫn
nghĩ đến làm lợi ích mọi người. Quả đây không phải là hạng người tầm thường dễ
tìm thấy trong xã hội loài người.
Tuy nhiên, người có tâm nguyện hiến cơ
phận, thiết nghĩ, cũng nên giải thích rõ với những người thân thuộc trong gia
đình về bản nguyện của mình, để không gặp sự cản trở có thể xảy ra sau khi lâm
chung. Mặt khác, tang quyến cũng nên nói rõ cho quý Tăng Ni biết về bản nguyện
hiến cơ phận của bệnh nhân trong giờ phút hộ niệm mà bệnh nhân đang trong tình
trạng hấp hối hay lúc tẩn liệm. Mục đích là để thức nhắc cho bệnh nhân nhớ lại
bản nguyện vị tha cao đẹp của mình lúc còn sống và hết lòng hộ trì cho nhân viên
bệnh viện thực hành nhiệm vụ cắt lấy cơ phận.
Tóm lại, khi đã nói hiến cơ
phận là đã có sự phát nguyện rồi. Đã có phát nguyện như thế, thì làm gì có sự
giận hờn. Vì người khác chỉ làm theo những gì mà mình đã phát nguyện. Như thế,
thì đây là điều hoàn toàn có lợi chớ không có hại chi cả.
Hỏi: Kính bạch thầy,
con không hiểu lý do tại sao người Phật tử khi ăn chay không được ăn ngũ vị tân?
Ăn ngũ vị tân có hại như thế nào mà không được ăn? Kính xin thầy từ bi giải đáp
cho chúng con được rõ.
Đáp: Theo truyền
thống Phật giáo Bắc truyền hay còn gọi là Phật giáo Phát triển, thì người Phật
tử khi ăn chay nên kiêng cử ngũ vị tân. Ngũ vị tân là năm món gia vị có mùi cay
nồng gồm: Hành (cách thông) hẹ (từ thông), tỏi (đại toán), kiệu (lan thông) và
hưng cừ, tên khoa học là Allium fistulosum, là loại gia vị có hình dáng và mùi
vị tương tự củ nén không có ở Trung Quốc và Việt Nam (Từ điển Phật học Hán –
Việt, NXB KHXH tr. 806).
Lý do tại sao người Phật tử không nên ăn những
thứ nầy, bởi vì đặc tính của những thứ nầy nó chứa nhiều tố chất kích thích và
mùi vị cay nồng, nếu ăn nhiều thì thân thể có mùi hôi, nóng nảy và bị kích dục.
Do đó, mà trong Kinh Lăng Nghiêm, quyển 8, Phật dạy: “Các chúng sinh cầu Thiền
định (Samadhi) không nên ăn năm món cay nồng của thế gian. Vì năm món cay nồng
đó nếu ăn chín thì phát dâm, ăn sống thì sinh nóng giận. Người nào ăn năm món
cay nồng ấy thì dẫu có tài giảng thuyết mười hai bộ kinh, chư Thiên mười phương
đều chê bai hôi thúi và xa lánh. Ma quỷ nhìn người ăn mấy món đó liền kéo đến
liếm môi, liếm mép họ, vì thế nên thường ở chung với ma quỷ. Phước đức của người
ăn ngũ tân mỗi ngày một tiêu dần. Bồ tát và thiện thần trong mười phương không
đến ủng hộ người ấy”. Vì thế, Kinh Phạm Võng, quyển hạ, Phật dạy: “Là Phật tử
thì không được ăn ngũ vị tân, nếu ai cố ý ăn thì phạm khinh cấu tội”.
Tuy
nhiên, theo khoa y học cho biết, ngũ vị tân có chứa nhiều hoạt chất làm tăng sức
đề kháng cho cơ thể, được dùng để phòng và trị bệnh. Những nghiên cứu mới nhất
của tổ chức sức khỏe thế giới ( WHO) về tỏi và hành có khả năng chữa các thứ
bệnh cảm cúm, tim mạch và ung thư v.v… Do vậy, nên vì mục đích ngăn ngừa hay
chữa trị bệnh, thì ở một chừng mực nào đó, người Phật tử ăn chay cũng có thể
dùng được.
Theo Đại Đường Tây Vực Ký của Tam Tạng Pháp Sư Huyền Trang
thì: “Các nhà sư ở Tây Vực, nếu người nào bị bệnh nặng, theo sự chỉ dẫn của thầy
thuốc phải dùng Ngũ vị tân thì tạm được dùng nhưng phải ở riêng một chỗ, biệt
lập. Sau khi hết bệnh, phải tắm gội sạch sẽ, thay đổi y phục, mới cho vào ở
chung với chúng Tăng.”
Điều nầy, người tu theo Mật giáo, chuyên trì chú,
thì tuyệt đối không được ăn. Vì ăn những loại nầy, sự trì chú sẽ không được linh
nghiệm. Nhưng đối với những người tu theo Hiển giáo, thì có khác. Vì Hiển giáo
không chú trọng vào sự trì chú, nên Phật không có cấm một cách tuyệt đối. Theo
lời giải đáp của Hòa Thượng Thanh Từ về vấn đề nầy, qua câu hỏi của một Phật tử,
được ghi lại trong bộ băng nhựa giảng giải về 33 vị Tổ Thiền tông Ấn Độ và Trung
Hoa, thì Hòa Thượng cho rằng, người Phật tử tu theo Hiển giáo, thì vẫn có thể
dùng được những thứ nầy. Nhưng như trên đã nói, chỉ được dùng trong một chừng
mực nào đó, để ngăn ngừa trị bệnh mà thôi, chớ không nên dùng thái quá, phản tác
dụng mà có hại cho sức khỏe. Tuy nó là một vị thuốc, nhưng nếu sử dụng quá mức,
thì cũng dễ gây ra tai hại.
Nói tóm lại, việc kiêng cử Ngũ vị tân, đối
với những Phật tử xuất gia hoặc tại gia tu theo Mật tông, thì tuyệt đối họ không
bao giờ dùng. Ngược lại, những Phật tử tu theo Hiển giáo, thì không có kiêng cử
tuyệt đối. Tuy nhiên, nếu Phật tử nào ăn chay mà gìn giữ kiêng cử không ăn, thì
đó cũng là điều rất tốt vậy.
Hỏi: Kính bạch thầy,
khi vào các chùa thuộc Phật giáo Bắc tông, ở hậu tổ, con thấy đa phần các chùa
đều có thờ hình Tổ Bồ Đề Đạt Ma trên vai có quảy một chiếc dép. Con không hiểu
về sự tích và ý nghĩa nầy như thế nào? Kính mong thầy hoan hỷ giải đáp cho con
rõ. Kính đội ơn thầy.
Đáp: Tổ Bồ Đề Đạt Ma là vị
sơ Tổ Trung Hoa. Sử ghi lại, Ngài từ Ấn Độ đến Trung Hoa truyền pháp đi bằng
đường biển tới Quảng Châu ngày 21 tháng 9 năm Canh Tý nhằm đời nhà Lương, niên
hiệu Phổ Thông năm đầu (520. TL ).
Sau khi hội kiến cùng vua Lương Võ Đế,
Ngài thấy căn cơ của nhà vua không lãnh hội được yếu chỉ Thiền tông, nên Ngài
rời khỏi Kim Lăng (kinh đô nước Lương) đến Lạc Dương, trụ tại chùa Thiếu Lâm ở
Tung Sơn, trọn ngày ngồi xoay mặt vào vách im lặng. Nơi đây, Ngài đã độ một vị
đệ tử đầu tiên tên là Thần Quang pháp danh là Huệ Khả. Huệ Khả đã được Ngài
truyền tâm ấn và kế vị làm Tổ thứ hai.
Thời kỳ cuối đời Ngài hiện có
nhiều truyền thuyết quan niệm khác nhau. Theo Thiền Luận, quyển thượng của Thiền
sư Suzuki do Trúc Thiên dịch thì: “Những ngày cuối cùng của Đạt Ma ở Trung Hoa
bao trùm trong bí mật; ta không biết rằng bằng cách nào, lúc nào và tại đâu Sư
lìa cõi thế tục nầy. Có người nói Sư bị đối phương đầu độc, người nói Sư băng
qua sa mạc về Ấn…” Tuy vậy, căn cứ Sử 33 vị Tổ Thiền tông Ấn – Hoa do Hòa
Thượng Thích Thanh Từ biên soạn, thì Ngài an nhiên thị tịch tại Trung Hoa nhằm
ngày mùng 9 tháng 10 năm Bính Thìn, niên hiệu Đại Thông năm thứ hai, nhà Lương
(529 TL). Nhục thân của Ngài an táng tại chùa Định Lâm, núi Hùng Nhĩ. Nhưng khi
Tống Vân đi sứ Ấn Độ về lại gặp Ngài tại núi Thông Lãnh, quảy một chiếc dép và
đi nhanh như bay. Tống Vân sau khi về Triều tấu trình mọi sự lên vua, nhà vua
liền cho khai quật mộ Ngài, thì quả nhiên không thấy thi thể của Ngài và chỉ còn
thấy có một chiếc dép. Mục kích điều kỳ diệu nầy, nhà vua liền ra lệnh đem chiếc
dép về thờ tại chùa Thiếu Lâm. Từ đó về sau, các chùa Phật giáo Bắc tông, ở hậu
tổ đều có thờ tôn tượng qua hình ảnh trên vai quảy chiếc dép nầy, gọi là quảy
hài về Tây.
Đó là chúng tôi lược kể về chuyện tích của Ngài. Nhưng tại
sao Ngài không quảy một đôi dép mà Ngài chỉ quảy một chiếc? Vậy quảy một chiếc
có ý nghĩa gì? Và tại sao không xách mà phải quảy trên vai? Đó là điều mà đại đa
số chúng ta đều thắc mắc. Vấn đề nầy, thú thật, thì chúng tôi chưa thấy sách sử
nào ghi chép giải thích, nhưng, theo chỗ học hỏi tìm hiểu của chúng tôi, thì
điều nầy, chỉ là mang một ý nghĩa có tánh cách biểu trưng mà thôi.
Theo
nhà Thiền, muốn giải thoát thì hành giả phải vượt ra ngoài đối đãi vọng chấp hai
đầu. Hiện tại, chúng ta đang sống bị dính kẹt vào lối chấp đối đãi hai đầu: có,
không, phải, trái v.v… Chính vì sự dính mắc nầy mà chúng ta phải chịu triền miên
đau khổ. Vì còn thấy có hai bên là còn có vọng chấp phiền não tạo nghiệp. Đã có
tạo nghiệp là có sanh tử luân hồi nổi trôi để thọ quả báo. Muốn chấm dứt vòng
sanh tử khổ đau, thì hành giả cần phải buông xả vọng chấp hai đầu nầy. Do đó,
một chiếc dép là để biểu trưng cho yếu lý vượt ngoài đối đãi và phải đạt cho kỳ
được diệu lý Nhứt thừa viên đốn.
Còn quảy trên vai là nói lên ý nghĩa
gánh vác đảm đang. Trọng trách của người tăng sĩ, nhứt là người tu Thiền thì
phải có trách nhiệm hoằng truyền chánh pháp. Tục diệm huệ đăng hay dĩ tâm truyền
tâm, để cho chánh pháp được lưu truyền mãi trên nhơn gian làm lợi ích cho chúng
sanh, đó là một trọng trách lớn lao của người tăng sĩ: “tác Như lai sứ và hành
Như lai sự” vậy.
Hỏi: Kính bạch thầy,
con thường nghe người ta nói câu: “Đời cha ăn mặn, đời con khát nước”. Con chưa
hiểu rõ ý nghĩa của câu nói nầy như thế nào? Và nói như thế có trái với luật
nhân quả hay không? Kính xin thầy hoan hỷ giải đáp cho chúng con được
rõ.
Đáp: Câu nói nầy mới nghe qua, thì dường như có chống trái
với luật nhân quả. Vì theo luật nhân quả, ai làm nấy chịu, không thể người nầy
ăn mà người khác lại no, hay người nầy uống mà người kia đã khát. Nghiệp quả
mình gây, thì mình phải chịu nhận lấy, không ai thay thế cho ai. Thế thì, tại
sao ở đây nói, đời cha ăn mặn, đời con khát nước? Câu nói nầy, theo chỗ hiểu
của chúng tôi, thì nó nói lên cái tác động ảnh hưởng qua lại trong đời sống gia
đình.
Đã sống chung trong một gia đình, tất nhiên, ngoài biệt nghiệp ra,
nó còn có sự cộng nghiệp trong đó. Nếu không có sự cộng nghiệp, thì chắc chắn
không có sự quan hệ gắn bó tương quan qua tình nghĩa cha con hay vợ chồng. Dù
đây là duyên nợ oan gia chằng chịt của mỗi người với nhau trong quá
khứ.
Đã nói là cộng nghiệp, thì ít nhiều gì cũng có ảnh hưởng với nhau.
Theo biệt nghiệp, thì ai làm nấy chịu. Như cha phạm pháp, thì cha phải chịu tù
tội trước luật pháp, không ai có thể thay thế. Tuy nhiên, nếu xét trên bình diện
cộng nghiệp, thì việc làm của người cha sẽ gây ra ảnh hưởng đến gia đình rất
lớn. Ảnh hưởng tác động qua nhiều phương diện. Như sa sút về phương diện làm ăn,
khó khăn trong vấn đề kinh tế gia đình, ảnh hưởng đến sự học hành của con cái về
mặt lý lịch, vật chất cũng như tinh thần.
Điều liên hệ ảnh hưởng về việc
học hành thi cử nầy, chúng ta thấy rất rõ, sau năm 1975, đa số các con em học
sinh trong những gia đình có cha làm sĩ quan cấp lớn thời quốc gia, đều bị đánh
rớt vì lý lịch không tốt. Như vậy, việc cha làm có ảnh hưởng cho gia đình và
con cái là như thế.
Đó là một cộng nghiệp chung của gia đình phải gánh
chịu. Còn người cha bị pháp luật trừng trị hành hạ đó là nghiệp riêng của ông
ta. Từ đó suy ra, hành động tốt hay xấu của mỗi thành viên trong gia đình hay
trong một đoàn thể, rộng ra là cả quốc gia dân tộc, đều có tác động ảnh hưởng
chung. Vì thế mới có những câu nói : “Tốt lá tốt nem, tốt em, tốt chị. Hay ngược
lại cũng thế. Hoặc: một người làm xấu cả bọn mang nhơ; một người làm tốt cả bọn
được nhờ. Một con sâu làm sầu nồi canh v.v…” Còn và còn rất nhiều những câu nói
như thế.
Nếu làm cha mẹ ăn ở không có đạo đức, thì người con dễ bị hư
hỏng. Thí dụ trong gia đình, người cha thì hay rượu chè say sưa be bét, còn mẹ
thì cũng hay thích chơi bài bạc đỏ đen. Đã vậy, hai người còn xung khắc cãi vã
rầy rà với nhau mãi. Cuộc sống giữa hai người không có một chút hạnh phúc. Cả
hai đều sống buông thả như thế, thì bảo làm sao con cái trong gia đình nên thân
cho được? Bởi cha mẹ thiếu đạo đức, thì làm sao dạy dỗ con cái. Tất nhiên, con
cái cũng có cuộc sống bê tha mà thôi. Điều nầy, đã và đang xảy ra nhan nhãn hằng
ngày trong xã hội.
Trong cuộc đời tương đối, đôi khi cũng có những trường
hợp đặc biệt ngoại lệ. Như cây đắng mà sanh trái ngọt. Có những gia đình, cha mẹ
thiếu đạo đức, kém học thức, nhưng có những đứa con rất ngoan hiền, học giỏi đổ
đạt thành tài. Những trường hợp ngoại lệ nầy, thật sự mà nói, ta thấy rất ít.
Đại đa số, đều tác động chịu ảnh hưởng bởi cộng nghiệp rất lớn.
Tóm lại,
câu nói trên, theo tôi, thì không có gì là chống trái với luật nhân quả cả. Vì
luật nhân quả, ta phải xét qua nhiều mặt. Không thể xét một cách đơn phương, cục
bộ, một chiều được. Bởi lý nhân quả nó tương quan theo ước định của chiều thời
gian. Và sự ảnh hưởng qua lại giữa biệt nghiệp và cộng nghiệp đương nhiên là
phải có. Đời cha gây ra những hành động xấu, tốt, tất nhiên, phải có ảnh hưởng
đến đời con. Nếu đời cha là người ăn ở có đạo đức, hiền từ, có trình độ học vấn
kiến thức khá, và có một đời sống cư xử gương mẫu, thì đời con chắc chắn là phải
có ảnh hưởng tốt đẹp lây. Trường hợp nầy đã xảy ra nhan nhãn trong xã hội xưa
nay.
Ngược lại, nếu người cha là một người kém đạo đức, đời sống bê tha
trụy lạc, có nhiều tánh xấu, thì tất nhiên sẽ gây tác động ảnh hưởng đến tánh
tình và đời sống của người con rất lớn. Như ăn mặn là nhân mà khát nước là quả.
Chính vì cha mẹ ăn ở không có đạo đức mà có thể gây ảnh hưởng hậu quả cho đời
con gánh chịu. Đây là nhân quả tương đồng tác động ảnh hưởng bởi cộng nghiệp mà
ra.
Hỏi: Kính bạch thầy,
người Phật tử ăn chay có ăn chay kỳ và ăn chay trường, con chưa hiểu tại sao
phải ăn chay trong các ngày trai giới? Và những ngày trai là những ngày gì? Kính
xin thầy từ bi giải đáp cho chúng con được rõ.
Đáp: Theo kinh Thế Ký
trong Trường A Hàm và Luận Đại Trí Độ nói, thì những ngày trai là ngày tuần thú
của sứ giả các cõi trời Tứ Thiên Vương và trời Ma Hê Thủ La. Những vị nầy lãnh
sứ mạng thị sát nhơn gian xem sự hành thiện tu tập của nhơn gian như thế nào rồi
về tâu lại với Thiên vương. Nếu như mọi người biết lo làm lành tạo phước như bố
thí và hiếu thảo với ông bà cha mẹ thì số lượng sanh thiên sẽ được gia tăng.
Bằng ngược lại, thì sự sanh thiên sẽ bị giảm thiểu. Do đó, mà ở nhơn gian người
ta cố gắng tu tạo phước lành trai giới, chay tịnh trong những ngày trai để được
sinh về các cõi trời. Đồng thời, vào những ngày trai các vị quỷ thần cũng thường
du hành trong nhơn gian và thường quở phạt gây ra tai họa cho những người không
tu tập, kém phước đức. Chính vì thế, mà Phật dạy các hàng Phật tử tại gia nên cố
gắng tu tạo phước đức vào những ngày chay tịnh. Nhờ tăng trưởng phước đức tu trì
mà có thể vượt qua mọi tai nạn khổ ách.
Trong một tháng có nhiều ngày
trai, tùy theo sự phát nguyện thọ trì trai giới của Phật tử mà có ra nhiều ngày
trai khác nhau. Nhưng chủ yếu là các ngày mùng tám, mười bốn, rằm và ba mươi. Vì
những ngày nầy, các vị Thiên sứ vâng mệnh của Thiên vương tuần hành thường xuyên
để khuyến khích nhơn gian tu phước sanh thiên. Bởi thế, nên trời Đế Thích có bài
kệ tán thán:
Người nào lấy ngày tám
Mười bốn, rằm mỗi
tháng
Để tu hành trai giới
Người ấy đồng với
ta.
Ngoài ra, còn có các ngày trai khác. Nếu người nào ăn chay
mười ngày, thì ăn vào các ngày 1, 8, 14, 15, 18, 23, 24, 28, 29, 30. Đây gọi là
thập trai. Còn nếu ăn sáu ngày (lục trai) thì: 8, 14, 15, 23, 29, 30 . Nếu ăn
bốn ngày (tứ trai) thì: 1, 14, 15, 30. Nếu ăn hai ngày (nhị trai) thì: mùng 1 và
rằm. Ngoài ra, còn có tam nguyệt trai, tức thọ trì trai giới vào những tháng:
tháng giêng, tháng bảy và tháng mười. Có người ăn luôn ba tháng, thì bắt đầu ăn
từ rằm tháng tư cho đến rằm tháng bảy.
Việc thọ trì trai giới để tu tập
tạo thêm phước đức là tùy thuộc vào sự phát nguyện của người Phật tử. Thông
thường, người Phật tử sau khi quy y, tối thiểu phải thọ trì 2 ngày chay: mùng
một và rằm. Vào những ngày trai giới, người Phật tử nên cố gắng gìn giữ tâm ý
mình cho được thanh tịnh bằng cách tụng kinh, niệm Phật và tu tạo nhiều phước
thiện v.v… Đó là điều rất tốt cho người Phật tử bền chí tu tập vậy.
Hỏi: Kính bạch thầy,
con thường phát tâm hỷ cúng tượng Phật cho các chùa, nhưng thú thật, con chưa
hiểu rõ lắm về nguyên nhân do đâu mà có tượng Phật và tượng Phật có từ lúc nào?
Ai là người tạo tạc tượng Phật đầu tiên? Kính xin thầy từ bi hoan hỷ giải đáp
cho chúng con được rõ.
Đáp: Căn cứ vào
kinh Phật Thuyết Đại Thừa Công Đức Tạo Tượng (Đại chính tân tu đại tạng kinh,
tập 16, tr. 790a), thì tượng Phật đã có ngay từ thời Phật còn tại thế. Nguyên
khởi là do vua Ưu Đà Diên, trị vì nước Câu Diệm Di là người đầu tiên dùng gỗ
thơm chiên đàn tạo ra hình tượng đức Phật Thích Ca Mâu Ni.
Kinh văn
nguyên tác rất dài, ở đây, chúng tôi chỉ xin được tóm lược nội dung qua một vài
ý chính như sau: “Sau gần 49 năm thuyết pháp độ sanh, trong mùa an cư cuối cùng,
Đức Phật liền nghĩ đến thánh mẫu Ma Da, nên Ngài tạm xa rời nhơn gian để lên
cung trời Đao Lợi thuyết pháp cho thánh mẫu và chư Thiên nghe. Trong thời gian
nầy, vua Ưu Đà Diên, ngày đêm hằng trăn trở thao thức nhớ nghĩ đến Phật. Vì ông
là một Phật tử rất thuần thành và luôn sùng kính Tam Bảo. Do tấm lòng nhớ nhung
tha thiết đó, là động cơ chính yếu thúc đẩy ông phải gấp rút tạo hình tượng
Phật. Đó là một việc làm nhằm mục đích thể hiện lòng khao khát kính ngưỡng của
ông đối với Đức Phật. Đồng thời, ông cũng muốn lưu lại hình bóng của Đức Thế
Tôn trong những lúc Ngài không có mặt ở nhân gian.
Sau khi nghĩ thế, nhà
vua liền ra lệnh triệu tập các điêu khắc gia nổi tiếng trong nước để điêu khắc
tạo hình tượng Phật để chiêm bái. Nhưng, lệnh truyền ra, mà không có ai dám đảm
nhận trọng trách nầy. Vì họ nghĩ rằng, thân Phật tướng hảo quang minh, oai
nghiêm cao quý, hình dung của Ngài siêu trần tuyệt thế, làm sao có thể tạc tượng
chuyển tải được những đức tướng giống hệt Ngài được. Thật là một việc làm vô
cùng khó khăn, nếu không khéo sẽ trở thành đắc trọng tội với Đức Phật. Do nghĩ
thế, mà không một người thợ điêu khắc nào dám nhận lãnh.
Lúc bấy giờ, có
một vị Trời tên là Tỳ Thủ Yết Ma, biết được việc đó, liền biến hóa ra một người
thợ mộc. Vị thợ mộc nầy, liền đến trước mặt nhà vua tâu rằng: “Muôn tâu Đại
vương, tôi là một thợ mộc khéo tay nghề, xin hết lòng vì nhà vua mà tạo tượng
Phật. Việc làm của tôi, quyết không để cho nhà vua thất vọng. Vậy, cúi xin Đại
vương chớ tìm người khác hãy để cho tôi đảm nhận trọng trách nầy”.
Nghe
qua, nhà vua chấp thuận và ra lệnh phải thi hành ngay. Với bàn tay tuyệt xảo của
vị trời nầy, chỉ trong vòng thời gian một ngày, thì tượng Phật đã được hoàn tất.
Hình tượng Phật điêu khắc tuyệt đẹp, nhà vua rất ưng ý hài lòng. Nhà vua chiêm
ngưỡng trầm trồ khen ngợi, phát hỷ tâm thanh tịnh, liền chứng Nhu thuận nhẫn.
(Nhu thuận nhẫn nghĩa là tâm nhu, trí thuận; theo Vô Lượng Thọ Kinh, thì nhu
thuận là một trong 3 pháp nhẫn : Âm hưởng nhẫn, nhu thuận nhẫn, và Vô sinh pháp
nhẫn). Ngay sau khi chứng được Nhu thuận nhẫn, nhà vua vô cùng hoan hỷ mừng rỡ,
bao nhiêu phiền muộn đều tiêu tan hết.
Về công đức tạo tượng, cũng theo
kinh văn nói trên, Đức Phật dạy rằng: “bất cứ ai dùng những vật liệu như: tơ sợi
thêu thùa tượng Phật hoặc dùng chì, kẽm, vàng, bạc hay các loại gỗ thơm chiên
đàn v.v… tô đắp tạc tượng, khiến mọi người chiêm ngưỡng lễ bái, thì đều được
phước báo vô lượng vô biên. Người đó sẽ được hình tướng đoan trang và sẽ tiêu
trừ được những tội cực trọng”.
Qua đó cho chúng ta thấy rằng, người tạo
nên tượng Phật hoặc người góp tịnh tài hỷ cúng vào công việc tạo tượng nầy, thì
cả hai đều được phước đức rất lớn lao. Vì người Phật tử góp phần vào việc duy
trì Tam Bảo để làm lợi lạc cho nhơn sinh. Nhờ đó, mà Phật pháp mãi được lưu
truyền rộng rãi và cũng nhờ đó mà mọi người mới nghĩ nhớ đến ân đức cao sâu rộng
rãi bao la của Đức Phật. Có tưởng niệm như thế, người Phật tử mới thiết tha nỗ
lực hành trì và quyết lòng noi theo tấm gương hạnh nguyện từ bi vị tha cao cả
của Đức Phật mà gắng công tu hành để chóng được giác ngộ giải thoát.
Tóm
lại, nhờ vua Ưu Đà Diên mà hôm nay, chúng ta mới có được những tượng Phật để tôn
thờ. Dù điêu khắc hay tô đắp tạc tạo với bất cứ hình thức vật liệu nào, tất cả
cũng nhằm một mục đích chung là mang lại một sắc thái thẩm mỹ để phát khởi tín
tâm của những người hâm mộ sùng bái ở nơi Đức Phật. Thế nên, các nhà điêu khắc
tạo tượng cũng phải có một năng lực chuyên môn và một cảm quan sâu sắc, mới có
thể thực hiện hoàn mỹ công việc nầy. Đó là một phước đức rất lớn lao mà không
phải ai cũng có thể tạo nên được.
Hỏi: Kính bạch thầy,
con có nghe băng giảng nói về tam đức: trí đức, đoạn đức và ân đức. Nhưng con
không hiểu ý nghĩa về ba đức nầy như thế nào? Kính xin thầy hoan hỷ giải đáp cho
con hiểu.
Đáp: Tam đức thuộc về pháp
số hay danh số. Tam đức gồm có:
- Trí đức hay còn gọi là quán đức
nó có nghĩa là, người tu hành cần phải dùng trí huệ quán sát các pháp đều là hư
giả không thật. Nhờ quán sát như thế, nên không nhiễm trước ở nơi các pháp. Do
đó, hành giả sẽ được giải thoát.
- Đoạn đức là chỉ cho đoạn dứt hết
các thứ vô minh phiền não lậu hoặc.
- Ân đức là chỉ cho cái đức ban ân
huệ cho chúng sanh. Ân đức nầy là do nguyện lực của Phật và Bồ tát luôn luôn cứu
độ chúng sanh. Người có ân đức là người luôn có tâm hồn rộng lượng bao dung tha
thứ và làm lợi ích cho muôn loài.
Hỏi: Kính bạch thầy,
có người hỏi con về ý nghĩa lá cờ Phật giáo. Họ hỏi tại sao có 5 màu khác nhau.
Vậy 5 màu đó tượng trưng cho ý nghĩa gì? Thật sự con không hiểu, xin thầy giải
đáp cho con rõ.
Đáp: Lá cờ Phật giáo đã
được chấp thuận bởi Hội Nghị Liên Hữu Phật giáo Thế Giới, tổ chức lần đầu tiên
tại thủ đô Colombo Tích Lan, từ ngày 26 tháng 5 năm 1950 đến ngày 7 tháng 6 năm
1950. Lá cờ 5 sắc là tượng trưng cho Ngũ căn Ngũ lực. Ngũ căn gồm có: tín, tấn,
niệm, định, huệ. Còn Ngũ lực chỉ là tăng sức cho ngũ căn thêm lực dụng mạnh mẽ
hơn mà thôi.
Như chúng ta tin vào Tam bảo hay lý nhân quả, nhưng lòng tin
của chúng ta chưa được vững chắc mạnh mẽ, nên cần phải có niềm tin vững chắc
mạnh mẽ hơn, đó là phạm vi của tín lực. Nghĩa là có thêm năng lực thúc đẩy niềm
tin vững mạnh hơn lên. Tấn là tinh tấn, tức siêng năng hành trì về một pháp môn
nào đó. Như siêng năng niệm Phật chẳng hạn. Mặc dù chúng ta có siêng năng, nhưng
sự siêng năng của chúng ta chưa được mạnh mẽ, nên cần phải có tấn lực vào, thì
sức siêng năng niệm Phật của chúng ta mới được dũng tiến hơn. Nhờ sức tinh tấn
nên chúng ta luôn luôn nhớ đến danh hiệu Phật mà chuyên trì không gián đoạn. Sự
chuyên chú hằng nhớ, đó là Niệm. Từ niệm chuyên chú lâu ngày thuần thục, thì
Ðịnh lực phát sanh. Khi đã có định, tất nhiên là có Huệ. Ðó là ý nghĩa đại khái
của Ngũ căn và Ngũ lực.
Tóm lại, Năm màu của lá cờ là biểu trưng cho ý
nghĩa ngũ căn ngũ lực là như thế. Ngoài ra, nó còn biểu trưng cho ý nghĩa tinh
thần hòa hợp của Phật giáo. Phật giáo luôn chủ trương hòa bình. Cho nên, nhơn
loại khắp năm châu, tuy màu da chủng tộc có khác nhau, nhưng Phật giáo xem nhau
như tình huynh đệ một nhà.Với tinh thần từ bi, bình đẳng, lục hòa, Phật giáo
không có phân chia giai cấp hay phân biệt khác nhau màu da chủng tộc. Vì tất cả
đều có chung một nguồn tuệ giác (Phật tánh) như nhau. Vì vậy, nên lá cờ Phật
giáo ngoài ý nghĩa biểu trưng cho giáo lý, nó còn nói lên tinh thần thích nghi
hòa hợp đó.
Hỏi: Kính bạch thầy,
xin thầy chỉ cho chúng con sự khác biệt giữa hình tượng Phật Thích Ca và Phật A
Di Đà khác nhau ở điểm nào?
Đáp: Sự khác biệt giữa hai
tôn tượng Phật Thích Ca và Phật A Di Đà qua một vài đặc điểm của biểu tướng như
sau:
- Phật Thích Ca thường trong các
chùa Phật giáo Bắc Tông (Đại Thừa) đều thờ Ngài ở chính giữa chánh điện. Nên gọi
Ngài là đấng Trung Tôn, vì Ngài là vị Giáo chủ cõi Ta bà nầy.
- Hình tượng Ngài không nhứt thiết
phải giống người Ấn Độ, vì theo quan niệm Phật giáo Bắc tông, nhứt là Thiền tông
cho rằng, mỗi người đều có ông Phật (Phật tánh) nên người nước nào tạc tượng
giống người nước đó. Từ nét mặt cho đến hình tướng. Nên hình tượng thờ trong các
chùa không nhứt thiết phải giống nhau. Đó là xét trên đại thể, còn các chi tiết
thì tương đối giống nhau.
Như ngồi trên tòa sen, hai bàn
tay bắt ấn Tam muội, nhục kế trên đỉnh đầu, đôi mắt mở ba phần tư, và mặc ca sa
(y) v.v… Đó là một vài nét biểu tướng của Phật Thích Ca. Ngoài ra, các chùa còn
có thờ tôn tượng Đức Phật Thích Ca sơ sinh tay chỉ thiên tay chỉ địa.
Về
Tôn tượng đức Phật Di Đà, thông thường, có hai tượng mà chúng ta thường thấy:
Tượng Ngài ngồi kiết già trên tòa sen, tay kiết định ấn, tương tợ Phật Thích Ca
và tượng đứng trên hoa sen lơ lửng trong hư không, bên dưới là bể cả sóng nổi
lên rất cao, mắt Ngài nhìn xuống, tay trái bắt ấn cam lồ và đưa lên ngang vai,
tay mặt duỗi xuống như sẵn sàng chờ đợi cứu vớt những chúng sanh đang đắm chìm
trong bể khổ. Tượng nầy gọi là tượng Di Đà phóng quang. Về tượng đứng, thường
bên cạnh Ngài có hai vị đại Bồ tát Quán Âm và Thế Chí. Bồ tát Quán Âm thì đứng
bên tay trái và Bồ tát Thế Chí đứng bên tay phải của Ngài. Đây gọi là tượng Tam
Thánh. Về tượng nầy, thì rất dễ phân biệt khác với tượng Phật Thích Ca. Còn về
tượng ngồi, ta nên lưu ý sự khác biệt giữa hai tôn tượng như sau:
- Tượng Phật Thích Ca không bao
giờ duỗi một cánh tay.
- Tượng Phật Thích Ca thường đắp y
choàng qua cổ không có đắp y khoát vuông để trống trước ngực có chữ vạn. Ngược
lại, tượng Phật Di Đà có đôi khi người ta tạc tượng Ngài ngồi tư thế kiết già và
duỗi xoè bàn tay mặt. Y khoát cổ vuông và trước ngực có chữ vạn. Đó là hai nét
chính khác với tượng Phật Thích Ca.
Hỏi: Kính thưa thầy,
con nghe nói bát kỉnh pháp mà con không hiểu bát kỉnh pháp là gì? Xin thầy hoan
hỷ giải thích cho con rõ.
Đáp: Bát kỉnh pháp hay còn gọi là bát kỉnh giới hoặc bát trọng pháp,
gọi tắt là bát kỉnh. Đây là tám pháp mà Phật dạy Tỳ kheo ni phải cung kính tôn
trọng Tỳ kheo tăng. Bát kỉnh pháp gồm có:
- Tỳ kheo ni dầu 100 tuổi hạ, thấy
vị Tỳ kheo tăng mới thọ giới, cũng phải đứng lên tiếp đón lễ bái và trải tòa
sạch sẽ mời ngồi.
- Tỳ kheo ni không được chê bai
mắng nhiếc Tỳ kheo tăng.
- Tỳ kheo ni không được cử tội,
nói lỗi của Tỳ kheo tăng, ngược lại Tỳ kheo tăng được quyền nói lỗi của Tỳ kheo
ni.
- Thức xoa ma na ( Sa di ni học
pháp trước khi thọ giới Tỳ kheo ) học giới xong, nên theo chúng tăng cầu thọ đại
giới.
- Tỳ kheo ni phạm tội tăng tàn,
nên phải nửa tháng ở hai bộ tăng hành pháp ma na đỏa.
- Tỳ kheo ni nên trong nửa tháng
theo Tỳ kheo tăng cầu thọ học.
- Tỳ kheo ni không được an cư ở
nơi không có Tỳ kheo tăng mà an cư.
- Tỳ kheo ni an cư kiết hạ xong,
nên ở trong chúng Tỳ kheo tăng cầu xin 3 việc để tự tứ sám hối. (Từ Điển Phật
Học Huệ Quang tập 1 trang 574)
Hỏi: Kính bạch thầy,
con đọc trong kinh thấy nói Bát nạn, nhưng con không hiểu Bát nạn là gì? Xin
thầy hoan hỷ giải đáp cho con được rõ. Cám ơn thầy.
Đáp: Bát nạn còn gọi là Bát nạn xứ hay Bát nạn giải pháp
v.v… Nó có nhiều tên gọi khác nhau, nhưng tựu trung cũng chỉ cho tám chỗ mà
chúng sanh thọ khổ. Bát nạn gồm có:
- Nạn địa ngục: chúng sanh do tạo
nghiệp ác, nên phải chiêu cảm quả báo đọa vào địa ngục, chịu khổ không ngừng,
không được thấy Phật nghe pháp.
- Nạn ngạ quỷ: Tức là loài quỷ
đói. Chúng sanh do tạo nghiệp tham lam bỏn xẻn nên chiêu cảm thọ sanh vào loài
ngạ quỷ phải chịu đói khát khổ sở trăm bề.
- Nạn súc sanh: Chúng sanh do si
mê tối tăm, hành động phi pháp trái với luân thường đạo lý, nên phải chiêu cảm
quả báo thọ sanh vào loài súc sanh nầy.
- Nạn sanh lên cõi trời Trường
thọ: Cõi trời nầy thọ mạng dài lâu, bị chướng ngại không được thấy Phật nghe
pháp.
- Nạn sinh ở Uất đan việt hay còn
gọi là Bắc cu lô châu hoặc Thắng xứ. Vì người sanh về cõi nầy, họ mãi mê tham
đắm hưởng lạc, nên không gặp được Phật pháp tu hành.
- Nạn đui điếc câm ngọng: Tuy sanh
được làm người nhưng sáu căn của họ không được vẹn toàn, nên cũng không được
thấy nghe học hỏi Phật pháp.
- Nạn thế trí biện thông: hạng
người nầy, tuy họ rất thông minh lanh lợi, chuyên nghiên cứu học sách ngoại đạo,
nên họ không tin chánh pháp, không biết tu hành để được giải thoát sanh tử khổ
đau.
- Nạn sanh trước Phật và sau Phật:
Chúng sanh do nghiệp chướng sâu dầy, nên sanh ra đời không được gặp Phật.
- Đại khái trong Kinh nói Bát nạn
là như thế.
Hỏi: Kính bạch thầy,
mỗi khi lạy Bồ tát Địa Tạng, nhìn thấy Ngài tay mặt cầm tích trượng còn tay trái
thì nắm hạt minh châu, con không hiểu ý nghĩa nầy như thế nào? Kính xin thầy
giải đáp cho con rõ.
Đáp: Tích trượng là một trong những pháp khí do Phật chế ra.
Thời xưa, Phật và các Thánh chúng đi khất thực thường vai mang bát và tay cầm
tích trượng. Công dụng của tích trượng là để dẹp trừ những chướng ngại vật làm
trở ngại bước chân của các Ngài đi. Như rắn rết v.v…
Còn trên đầu tích
trượng sở dĩ có 12 khoen, đó là biểu trưng cho 12 nhân duyên. Đức Phật do giác
ngộ 12 nhân duyên mà được thành tựu đạo quả. Từ đó, Ngài đem 12 nhân duyên để
giáo hóa chúng sanh, vì Ngài muốn mọi người đều được giác ngộ đạo lý như Ngài.
Vì thế, tay mặt của Bồ tát Địa Tạng cầm cây tích trượng trên đầu có 12 khoen là
nói lên ý nghĩa tiêu biểu đó. Còn tay trái Ngài nắm hạt minh châu là tượng trưng
cho trí huệ. Vì muốn phá vô minh, cần phải có trí huệ. Một khi có trí huệ chiếu
sáng thì vô minh không còn. Đầu mối của 12 nhân duyên là vô minh. Nên 12 khoen
là tượng trưng cho vô minh. Hạt minh châu là tượng trưng cho trí huệ. Khi trí
huệ bừng sáng như hạt minh châu chiếu sáng, thì bóng tối vô minh không còn.
Ngang đó, sẽ được giải thoát sanh tử chấm dứt mọi khổ đau ràng buộc. Bởi thế,
nên hình ảnh của Bồ tát Địa Tạng là biểu trưng người xuất gia, khác hơn các vị
Bồ tát khác tượng trưng một người cư sĩ tại gia. Tất cả đó là nói lên ý nầy.
Hỏi:
Kính bạch thầy, con nghe nói người tu hành hay bị bốn thứ ma làm chướng ngại,
nhưng con không hiểu bốn thứ ma đó là gì? Cúi xin thầy từ bi giải đáp cho con
rõ.
Đáp: Trong Kinh
Bát Đại Nhơn Giác có câu nói: “Tồi phục tứ ma, xuất ấm giới ngục”. Nói bốn loại
ma đó là: Phiền não ma, ngũ ấm ma, thiên ma và tử ma.
Bốn loại ma nầy,
làm chướng ngại cho người tu hành rất lớn.
Thứ nhứt là phiền não
ma. Đây là ma trong tâm của mỗi người. Phiền não gồm có rất nhiều loại,
nhưng không ngoài hai loại chính: căn bản phiền não và tùy phiền não. Căn bản là
gốc rễ. Tức là những loại: tham, sân, si, mạn, nghi, ác kiến. Đây là những loại
có gốc rễ sâu dầy thật khó trừ khó đoạn. Chính nó là nguyên nhân gây ra cho
người ta phải đau khổ triền miên.
Còn tùy phiền não, thì nhẹ hơn, nhưng
chúng nó cũng gây ra cho người ta luôn luôn bất an. Chúng gồm có 20 thứ. Cường
độ của chúng, cũng có loại mạnh loại yếu. Nên các nhà Duy Thức chia chúng ra làm
ba loại: tiểu tùy, trung tùy và đại tùy.
Về tiểu tùy thì có 10 thứ: phẩn,
hận, phú, não, tật, xan, cuống, siểm, hại, kiêu.
Trung tùy gồm có 2 loại:
vô tàm và vô quý.
Đại tùy gồm có 8 thứ: điệu cử, hôn trầm, bất tín, giải
đãi, phóng dật, thất niệm, tán loạn, bất chánh tri.
Thứ hai là ngũ ấm
ma. Ngũ ấm ma gồm có: sắc, thọ, tưởng, hành và thức. Tại sao gọi 5 thứ nầy
là ma? Vì 5 thứ nầy không thật có mà người ta cố chấp cho là thật có, rồi từ đó
mà tạo nghiệp thọ khổ nên gọi nó là ma.
Thứ ba là thiên ma. Đây là
loại ma vương ở cõi trời Dục giới. Chúng có khả năng biến hóa khuấy phá nhiễu
loạn làm trở ngại sự tiến đạo của hành giả. Loại ma nầy, khuấy phá Phật khi Phật
sắp thành đạo. Vì bọn chúng không muốn cho ai thoát khỏi ngũ dục. Chúng thấy ai
tu hành tinh tấn, không còn mê đắm ngũ dục lạc thế gian, thì chúng thường hay
khuấy phá.
Thứ tư là tử ma. Tử ma là ma chết. Con người sau khi
chết thành loài ma quái yêu tinh khuấy nhiểu làm người ta sợ hãi sanh bệnh v.v…
Hoặc người đang tinh tấn tu hành, bỗng bị vô thường xảy đến bệnh hoạn hay tai
nạn rồi ngã ra chết làm trở ngại dở dang sự tu hành đó cũng thuộc về tử
ma.
Nói tóm lại, bốn loại ma nầy, lực dụng của chúng đều làm chướng ngại
lớn trên bước đường tu tiến của hành giả. Vì bọn chúng khuấy nhiểu mà làm cho
người tu hành khó được giải thoát.
Namo Sakya Muni Buddha