Source: email 33 Ứng Hóa
Thân Của Bồ Tát Quán Thế Âm
Tác giả : Thích Nhuận Thường
![]() 1. Cáp Lỵ Quán Âm: Vua
Đường Văn Tông thích ăn thịt con hàu, một ngày nọ vua bắt được một con sò lớn,
vua dùng dao mổ hoài mà không mở được vỏ sò, ông mới đốt hương cầu nguyện, con
sò hóa thành Quán Âm Đại Sĩ. Nhà Vua triệu vị thiền sư đến nói: người đáng dùng
thân đặng được độ, thì hiện thân này mà nói pháp. Hiện thân Đại Sĩ là việc hy
hữu không tin hay sao. Nhà vua rất vui liền ban chiếu chùa chiền trong khắp
thiên hạ tạo tượng Đại Sĩ để tôn thờ. Đây là sự tích của Cáp Lỵ Quán Âm.
![]() 2. Thí Dược Quán Âm: ngoài
việc trị bệnh khổ của chúng sanh về thân và tâm, Quán Thế Âm Bồ tát còn ban bố
cho chúng sanh lương dược. Bài kệ trong phẩm Phổ Môn ghi rằng: “Quán Âm bậc Tịnh
Thánh, nơi khổ não nạn chết, hay vì làm nương cậy”. Hình tượng Quán Thế Âm Bồ
tát nhìn hoa sen cảm thương chúng sanh nhiều bệnh khổ.
![]() 3. Lang Kiến Quán Âm: còn
gọi là Phi Bộc Quán Âm. Nước là vật mềm mại nhất nhưng có thể đối trị sự cứng
chắc của đá, từng giọt nước có thể xuyên thủng đá. Sức nước suối từ trên cao
chảy xuống rất lớn, tuy nhỏ cũng có thể chảy thành sâu rộng. Quán Thế Âm Bồ tát
ngồi nhìn dòng thác, nhưng tâm tư Ngài như tinh thần của dòng nước.
![]() 4. Đức Vương Quán Âm: trong
phẩm Phổ Môn chép rằng: “người đáng dùng thân Phạm Vương đặng độ thoát, Ngài
liền hiện thân Phạm Vương mà vì đó nói pháp”. Phạm Vương là chủ cõi trời sắc
giới, công đức rất lớn, nên còn gọi là Đức Vương. Hình tượng thông thường trong
nhân gian là đầu đội bảo quan, ngồi kết già, tay phải cầm nhánh lá, tay trái để
trên đầu gối.
![]() 5. Nhất Diệp Quán Âm: nếu
bị nước lớn cuốn trôi, xưng danh hiệu Quán Thế Âm Bồ tát, liền được đến chỗ cạn.
Có thể thấy hình tượng Quán Thế Âm Bồ tát hiện trên nước. Ngài ngồi trên hoa sen
nổi trên mặt nước, ngắm nhìn nước tâm suy nghĩ sâu sắc đến những nơi tối tăm
không ánh sáng (địa ngục).
![]() 6. Thanh Cảnh Quán Âm: có
các vị thần muốn tìm lấy Cam Lộ nên khuấy động nhũ hải, nhưng phát hiện trong
biển có lọ thuốc độc, Quán Thế Âm Bồ tát vì sợ thuốc độc hại chúng sanh, mới
phát tâm đại từ bi uống hết lọ thuốc độc, vì vậy mà cổ Ngài biến thành màu xanh.
Hình tượng đặc trưng của Ngài là tay trái cầm hoa sen, lòng bàn tay phải hướng
lên trên, ngồi kết già trên bệ đá.
![]() 7. Nhất Như Quán Âm: Quán
Thế Âm Bồ tát cưỡi mây bay trong hư không chinh phục lôi điện sấm sét. Phẩm Phổ
Môn chép: “mây sấm nổ sét đánh, tuông giá xối mưa xuống, do sức niệm Quán Âm,
liền đặng tiêu tan cả”. Nhất như có nghĩa là bất nhị, bất dị; Bất Nhị Bất Dị là
Chơn Như. Chơn Như là sự sự vô ngại biến mãn khắp pháp giới. Quán Âm diệu trí
lực chính là pháp quán nhất như.
![]() 8. Diệp Y Quán Âm: Ngài
hiện thân Thiên nữ, đội bảo quan, trên bảo quan có hóa thân Vô Lượng Thọ Phật.
Quanh thân có vòng lửa, ánh sáng trong suốt khắp thân. Có bốn tay, hai tay bên
phải, một tay cầm quả cát tường để trước ngực, một tay kết thí nguyện ấn; hai
tay bên trái, một tay cầm rìu, một tay cầm sợi dây, ngồi trên hoa sen. Diệp Y
Quán Âm là vị Bồ tát của nông dân cầu nông cụ và cầu không bệnh dịch, tai nạn,
trùng độc.
![]() 9. Năng Tĩnh Quán Âm: Quán
Thế Âm Bồ tát cứu giúp thủ hộ những người gặp nạn được an ổn. Hoặc trôi dạt biển
lớn, các nạn quỷ cá rồng, do sức niệm Quán Âm, sóng mòi chẳng chìm đặng. Quán
Thế Âm Bồ tát là thần thủ hộ trên biển. Hình tượng của Ngài biểu hiện tướng tĩnh
lặng.
![]() 10. Viên Quang Quán Âm: đây
là Quán Thế Âm Bồ tát lòng từ ái viên mãn, biểu trưng bằng ánh quang minh quanh
thân. “sáng thanh tịnh không nhơ, huệ nhựt phá các tối, hay tiêu tai khói lửa,
khắp soi sáng thế gian”. Thân Ngài được cảm thọ qua đoạn kinh này, hiện tướng
thuyết pháp.
![]() 11. Sái Thủy Quán Âm: là
Quán Thế Âm Bồ tát đứng trên tường vân tay cầm chén nước rưới xuống. Lòng bi răn
như sấm, ý từ diệu dường mây, như mưa pháp cam lộ, dứt trừ lửa phiền não. Sái
thủy là rưới một loại nước thơm, là pháp tu tụng niệm gia trì làm cho thanh
tịnh. Đây là bổn thệ của Quán Thế Âm để khai ngộ Phật tánh của tất cả chúng
sanh.
![]() 12. Lục Thời Quán Âm: là vị
Bồ tát ngày đêm từ bi thủ hộ chúng sanh. Thời xưa miền Bắc Ấn Độ một ngày đêm
chia làm sáu thời, một năm cũng chia làm sáu thời là: “nắng ít, nắng nhiều, mưa,
mát, lạnh ít, lạnh nhiều”; Do đó mà nói thành “Quán Thế Âm thường trông chúng
sanh”.
![]() 13. Trì Liên Quán Âm: Là
Quán Thế Âm Bồ tát tay cầm hoa sen. Quán Thế Âm Bồ tát lấy hoa để biểu trưng cho
bổn thệ, vì cầm hoa sen đã nở hay chưa nở nên còn gọi là liên hoa thủ. Vì hoa
sen có nhiều nhơn duyên đặc thù nên cũng lấy hoa sen làm đài. Hình tượng Quán Âm
đứng trên lá sen, hai tay cầm hoa sen, đầu đội bảo quan, mặc thiên y, viên mãn
trang nghiêm.
![]() 14. Bất Nhị Quán Âm: là
biểu tượng bổn và tích bất nhị của Quán Thế Âm. Phẩm Phổ Môn chép: “người đáng
dùng thân chấp kim cang Thần đặng độ thoát, liền hiện Chấp Kim Thần mà vì đó nói
pháp. Quán Thế Âm là vị thủ hộ cho Phật, cũng là ứng hóa thân của Phật, vì bổn
và tích đều chẳng phải hai nên gọi là Bất Nhị Quán Âm. Hình tượng Ngài ngồi trên
bệ đá hai tay chấp trì kim cang xử.
![]() 15. Ngư Lam Quán Âm: là
Quán Thế Âm tay cầm giỏ cá và nhánh lá. Do Ngài thấy con sông không có cầu,
người qua sông rất dễ ngã xuống. Vì vậy Ngài hóa thân thành một mỹ nữ bán cá,
nhưng có điều kiện rằng ai có nhiều tiền ném vào trong giỏ cá thì sẽ cưới làm
chồng, nếu ném không trúng thì phải bỏ ra khoản tiền để xây cầu, kết quả chẳng
có ai ném trúng. Những người không ném trúng đều phải mang tiền đến, tiền chất
thành đống che khuất không còn nhìn thấy Ngài, khi nhìn lại thì mọi người thấy
Ngài hóa thân đứng trên sông.
![]() 16. Nham Hộ Quán Âm: là
hình tượng Quán Thế Âm Bồ tát ngồi trong hang đá. phẩm Phổ môn chép: “Rắn độc
cùng bò cạp, hơi độc khói lửa đốt, do sức niệm Quán Âm, theo tiếng tự bỏ đi”.
Thường trong hang động có nhiều chướng khí và trùng độc, là chỗ có nhiều nguy
hiểm đối với những người qua núi, Quán Thế Âm hiện ra thì mọi nguy hiểm đều tiêu
tan hết.
![]() 17. Chúng Bảo Quán Âm: là
hình tượng Quán Thế Âm Bồ tát tay cầm vàng bạc vật báu. Nếu có chúng sanh vì tìm
cầu báu vật như vàng bạc, lưu ly, mã não, san hô, hổ phách, trân châu… vào trong
thâm sơn đại hải, giả sử gió lớn thổi trôi dạt đến nước quỷ La Sát, nếu có một
người xưng danh hiệu Ngài, thì đều được giải thoát. Hình tượng của Quán Thế Âm
Bồ tát biểu hiện sự an ổn.
![]() 18. Đa La Quán Âm: dùng vật
báu vô giá trang nghiêm thân để trừ khổ não cho chúng sanh, tất cả chúng sanh
vui ưa vào pháp giới chư Phật. Ngài hiện thân người con gái, tướng mạo từ bi,
mặc y trắng, hai tay hiệp chưởng cầm hoa sen xanh.
![]() 19. Vô Úy Quán Âm: Hình
tượng của Ngài rất đặc thù có ba mắt bốn tay, ngồi trên lưng sư tử trắng, đội
bảo quan, hai tay bên phải, một tay cầm hoa sen trắng, một tay cầm con chim cát
tường trắng; hai tay bên trái, một tay cầm pháp khí hình con phượng 3 đầu, một
tay cầm con cá. Khắp thân có ánh sáng, mặc thiên y đeo anh lạc, diên mạo rất
đoan nghiêm.
![]() 20. Lưu Ly Quán Âm: Tương
truyền vào thời Bắc Ngụy, Tôn Kính Đức trấn giữ biên cương, ông tạo tượng Quán
Thế Âm Bồ tát để tôn thờ. Sau bị Di Địch bắt xử cực hình. Ông nằm mộng thấy thầy
Sa Môn dạy phải trì tụng một ngàn biến kinh “Diên Mạng Thập Cú Quán Âm”, lúc tử
hình ông ba lần chém nhưng không chút thương tích, nên ông được tha chết. Vì
phụng thờ lễ bái Quán Thế Âm Bồ tát mà đầu ông còn hiện ba vết sẹo. Hình tượng
Ngài cầm bình lưu ly xanh, đứng trên cánh hoa sen du hóa trên mặt nước.
![]() 21. Mã Lang Phụ Quán Âm:
Đời Đường có một mỹ nữ mà những người con trai đều tranh nhau cưới, nàng nói
trong một đêm nếu đọc thuộc được phẩm Phổ Môn sẽ lấy làm chồng, đêm ấy có hai
mươi người thuộc, lại một đêm tụng trọn bộ kinh Kim Cang cũng sẽ lấy làm chồng,
đêm ấy còn lại mười người, sau ba ngày có thể tụng thuộc Kinh Pháp Hoa thì sẽ
kết ước. Trong số đó chỉ có người thanh niên họ Mã được chọn. Ngày kết hôn người
con gái bỗng dưng chết biến thành ánh sáng bay lên không trung biến mất. Hình
tượng Ngài cầm quyển Kinh Pháp Hoa và cây gậy có hình đầu lâu.
![]() 22. A Nậu Quán Âm: Quán Thế
Âm Bồ tát quán sát mọi động tĩnh của đại hải. Thệ nguyện của Ngài
như bài kệ:“ông nghe hạnh Quán Âm, khéo ứng các nơi chỗ, thệ rộng sâu như biển,
nhiều kiếp chẳng nghĩ bàn”. Hình tượng của Ngài đầu búi tóc thiên kế, mặc Thiên
y màu vàng, tay trái cầm mảnh y trước bụng, tay phải thả trên gối phải, mắt nhìn
đại hải, hạnh nguyện của Ngài xua tan những hiểm nạn trên biển làm cho tất cả
định tĩnh không còn tai ương.
![]() 23. Phổ Bi Quán Âm: Quán
Thế Âm Bồ tát từ bi thương tất cả chúng sanh, khắp trong tam thiên đại thiên thế
giới. “Người đáng dùng thân Đại Tự Tại Thiên được độ thoát, liền hiện thân Đại
Tự Tại Thiên mà vì đó nói pháp”. Vì lòng từ bi và uy đức của Ngài rất lớn phổ
chiếu tất cả tam giới cho nên có tên gọi là Phổ Bi Quán Âm.
![]() 24. Du Hý Quán Âm: Quán Thế
Âm Bồ tát giáo hóa chúng sanh viên thông vô ngại, không câu nệ vào thời gian và
nơi chốn, biểu hiện tướng du hý tự tại.
![]() 25. Long Đầu Quán Âm: là
Quán Thế Âm Bồ tát ngồi trên lưng rồng. Rồng là vua trong các loài thú để biểu
thị cho uy lực của Quán Thế Âm Bồ tát; Long Vương đến mang mây mưa sấm chớp
chiếu diệu khắp trời đất, thấm nhuần muôn vật, tất cả đều tán thán uy lực của
Long vương. Ngài hiện thân ngồi kết già trên mình rồng thuyết pháp cho chúng
sanh.
![]() 26. Liên Ngọa Quán Âm: là
Quán Thế Âm Bồ tát ứng hiện tọa ngọa trên lá sen. Ngài hiện thân Tiểu Vương
trong phẩm Phổ Môn, để thí dụ cho thân Tiểu Vương tôn quý ngồi trên lá sen. Quán
Thế Âm Bồ tát ngồi kết già hiệp chưởng, đầu đội mão hoa, hiện tướng từ bi nhu
hòa, cổ đeo anh lạc, mặc thiên y, bi nhãn nhìn chúng sanh.
![]() 27. Uy Đức Quán Âm: Quán
Thế Âm Bồ tát có đầy đủ uy đức để chiết phục và hộ trì chúng sanh. Trong phẩm
Phổ Môn có đoạn: “người đáng dùng thân Thiên Đại Tướng Quân đặng độ thoát, Ngài
liền hiện thân Thiên Đại Tướng Quân mà vì đó thuyết pháp”. Thiên Đại Tướng Quân
có đầy đủ uy đức nên được gọi là Uy Đức Quán Âm. Hình tượng của Ngài là tay trái
cầm kim cang xử biểu hiện uy thế để chiết phục tâm cang cường của chúng sanh,
tay phải cầm hoa sen ngồi trên bệ đá.
![]() 28. Bạch Y Quán Âm: còn gọi
là Bạch Y Quán Tự Tại Mẫu. Toàn thân Ngài mặc y trắng, ngồi kết già trên hoa sen
trắng, đầu đội khăn, tay trái cầm hoa sen, tay phải kết dữ nguyện ấn. Màu trắng
biểu ý Thanh Tịnh và Tâm Bồ đề, xưa nay mọi người lễ bái Ngài để cầu tiêu tai,
trường thọ.
![]() 29. Trì Kinh Quán Âm: còn
gọi là Thanh Văn Quán Âm. Thanh Văn là nghe Phật thuyết pháp được khai ngộ mà
xuất gia. “người đáng dùng thân Thanh Văn được độ thoát Ngài liền hiện thân
Thanh văn mà vì đó nói pháp”. Hình tượng của Ngài biểu hiện sự an tường.
![]() 30. Diên Mạng Quán Âm: là
Quán Thế Âm Bồ tát bảo hộ thọ mạng chúng sanh. Phẩm Phổ Môn chép: “nguyền rủa
các thuốc độc, muốn hại đến thân đó, do sức niệm Quán Âm, trở hại nơi bổn nhơn”.
Có thể tiêu trừ chú thuật nguyền rủa và độc dược thêm tuổi thọ, cho nên gọi là
Diên Mạng Quán Âm. Ngài đội bảo quan, mặc Thiên y, anh lạc trang nghiêm, 20 cánh
tay để dìu dắt và cứu hộ chúng sanh.
![]() 31. Dương Liễu Quán Âm: còn
có tên gọi khác là Dược Vương Quán Âm, bổn nguyện của Ngài là bạt trừ cứu độ
những bệnh khổ của chúng sanh, vì chúng sanh thân nhiều khổ nạn nên Ngài cầm
cành dương. Dương liễu mềm mại biểu trưng cho đức tướng ôn hòa nhẫn nhục của
Quán Thế Âm Bồ tát. Thân mặc y màu trắng ngà, hình tượng của Ngài biểu hiện sự
kỳ nguyện phước đức.
![]() 32. Thanh Cảnh Quán Âm: có
các vị thần muốn tìm lấy Cam Lộ nên khuấy động nhũ hải, nhưng phát hiện trong
biển có lọ thuốc độc, Quán Thế Âm Bồ tát vì sợ thuốc độc hại chúng sanh, mới
phát tâm đại từ bi uống hết lọ thuốc độc, vì vậy mà cổ Ngài biến thành màu xanh.
Hình tượng đặc trưng của Ngài là tay trái cầm hoa sen, lòng bàn tay phải hướng
lên trên, ngồi kết già trên bệ đá.
![]() 33. Thủy Nguyệt Quán Âm:
tức là Thủy Cát Tường Quán Thế Âm Bồ tát trong Thai Tạng Mạn trà la, mật hiệu
của Ngài là Nhuận Sanh Kim Cang, Quán Thế Âm Bồ tát nhất tâm quán thủy tướng,
nhập thủy định. Vì vậy hình tượng của Ngài ngồi kết già trên hoa sen nổi trong
đại hải, tay trái cầm hoa sen, tay phải kết thí vô úy ấn, trong lòng bàn tay
chảy xuống một dòng nước có hình mặt trăng nên gọi là Thủy Nguyệt Quán Âm.
Thích Nhuận Thường |