Source: email Thích Nữ Giới Hương: PHẦN I LỜI ĐẦU Có một đêm,
Đức Phật đứng lặng lẽ trầm mặc bên dòng sông bạc. Tôn giả Xá Lợi Phất cũng đứng
phía sau và nhìn xuống ánh trăng lung linh óng ánh trên mặt nước, bất giác tôn
giả buồn bả than rằng:
-
“Bạch đức Thế Tôn! Thật đáng thương thay! Có những kẻ mò trăng đáy
nước đến nổi chết chìm”.
Đức Phật ôn
tồn đáp:
-
“Đúng thế! Thật đáng thương xót! Nhưng đáng thương hơn nữa là những
kẻ chấp rằng vũ trụ không trăng”.
Có người tìm
trăng đáy nước, thấy ánh trăng lung linh ảnh hiện trên mặt nước, nên lao đầu
xuống nước mò kiếm, nhọc sức luống công mà còn cái khổ phải bị chết chìm mà
không biết rằng rất đơn giản chỉ cần ngước đầu lên thì sẽ thấy được ngay chị
hằng xinh đẹp thật. Rồi lại có người cho rằng trên đời không có trăng dù rằng
mặt trăng tròn vằng vặn vẫn đang toả ánh sáng huyền diệu bao trùm vũ trụ không
gian đó... Đây là những người thật đáng thương, trong kinh Thủ Lăng Nghiêm gọi
là những chúng sanh luân hồi.
Trong chương
I, đoạn III, Phần Chỉ hai thứ cỗi gốc mê và ngộ, Phật bảo Tôn giả A
Nan:
“Tất cả chúng sinh từ vô thỉ đến nay điên đảo nhiều cách,
giống nghiệp tự nhiên nhóm lại như chùm quả ác xoa. Những người tu hành không
thành được đạo vô thượng Bồ đề, đến nỗi lại thành Thanh văn, Duyên giác hoặc
thành ngoại đạo, chư Thiên, Ma vương, hay bà con Ma, đều do không biết hai chữ
cỗi gốc, tu tập sai lầm, cũng như nấu cát mà muốn thành cơm, dầu trải qua nhiều
kiếp như vi trần, rốt cuộc vẫn không thể thành được. Thế nào là hai thứ cỗi gốc?
A
Nan, một là cái cỗi gốc sống chết vô thỉ, tức như thầy ngày nay cùng các chúng
sinh dùng cái tâm phan duyên mà làm tự tính.
Hai là cái thể bản lai thanh tịnh Bồ đề Niết Bàn vô thỉ thì
như hiện nay cái tính bản minh thức tính của thầy, sinh ra các duyên mà bị bỏ
rơi. Do các chúng sinh bỏ rơi cái bản minh ấy nên tuy cả ngày sống trong tính
bản minh mà không tự giác, oan uổng vào trong lục đạo”[1]
.
Kinh Thủ Lăng Nghiêm là một
bộ kinh thuộc hệ tư tưởng thượng thừa liễu nghĩa, có rất nhiều tư tưởng thâm áo
ẩn tàng trong kinh. Như một vườn hoa có rất nhiều hoa nở đẹp, tuyệt đẹp nhất là
hoa cúc trắng tinh khiết nói về Tạng tánh Như Lai tạng, hoa cúc vàng nói về mặt
luân chuyển của thức tinh nguyên minh và nhiều hoa khác nữa. Nội dung cuốn sách
nhỏ này chỉ nói về mặt ý nghĩa ‘luân hồi’ mà trong kinh Thủ Lăng Nghiêm có đề
cập đến, như người làm vườn chỉ xin nhặt hoa cúc vàng để mời người xem; còn hoa
trắng chỉ xin giới thiệu sơ lướt qua, đợi đủ thắng duyên sẽ tiếp tục ra mắt một
tác phẩm khác về ý nghĩa này.
Con thành tâm
hướng về Đại Ninh, xin đê đầu đảnh lễ trên Tôn sư Hải Triều Âm, người đã hết
lòng truyền trao cho chúng con nghệ thuật của người làm vườn từ những năm 1983,
1984 và 1985; người đã trao những hạt giống chắc tốt của Tứ Niệm Xứ
và Lăng Nghiêm cho chúng con. Hôm nay giống đã ra hoa. Nếu chúng
con có được chút công đức phước thiện nào trong cuốn sách nhỏ này, xin kính dâng
trên Thầy và pháp giới chúng sanh.
Lòng dạt dào
tràn đầy những cống hiến, nhưng sự giác tỉnh và năng lực thì còn yếu kém quá,
kính trông mong các thiện tri thức từ bi chỉ dạy cho những lỗi lầm sai sót, để
lần tái bản sau sách được hoàn mãn hơn.
Thành kính tri
ân.
Mùa thu lá
đỏ tại WI, ngày 30 tháng 8 năm 2008
Thích Nữ Giới Hương
()thichnugioihuong@yahoo.com [1] Kinh
Thủ Lăng Nghiêm, Tâm Minh biên dịch, NXB Tp HCM, 1999, tr.
68. CHƯƠNG I BỐI CẢNH PHẬT GIÁO
Trước khi vào nội dung kinh
Thủ Lăng Nghiêm, thiết tưởng chúng ta cũng nên tìm hiểu đôi chút về bối cảnh
Phật giáo trước khi Thủ Lăng Nghiêm xuất hiện.
Đức Phật là
một bậc giác ngộ vĩ đại, một bậc Thầy lớn của trời người. Sự cống hiến lớn của
Ngài là để lại cho nhân loại tam tạng kinh điển là con đường giải thoát hạnh
phúc vĩnh viễn qua chính sự chứng nghiệm của ngài.
Hệ thống giáo
lý 49 năm thuyết pháp của Đức Phật được Tổ Thiên Thai bên Trung Quốc kết lại
bằng một bài thơ ngắn gọn rằng:
Hoa Nghiêm tối
sơ tam thất nhật A Hàm thập nhị, Phương Đẳng [1]bát Nhị thập nhị niên Bát Nhã đàm Pháp Hoa, Niết bàn cộng bát niên. Nghĩa là: Hoa Nghiêm
trước nhất hai mươi mốt ngày, A hàm mười hai, Phương đẳng tám Hai mươi hai năm bàn Bát nhã Pháp hoa Niết bàn cộng tám năm. Sau 49 ngày
thiền tọa và giác ngộ, Đức Phật khởi tâm muốn chia sẻ Phật tuệ, hé lộ chân tánh
bình đẳng này đến với mọi người, nên Ngài nói kinh Hoa Nghiêm tiết lộ cho chúng
sanh đau khổ biết rằng ai cũng có thể có khả năng thành Phật như ngài. Nhưng đến
21 ngày, Ngài thấy hình như không ai hiểu được thâm nghĩa này, không để ý, mà
chúng sanh chỉ lo ham mê tham đắm tài, sắc, danh, lợi, ngủ nghỉ và quay cuồng
trong tham, sân, si, nên Ngài không muốn nói nữa và muốn bỏ cõi này để nhập Niết
Bàn.
Khi đó có các
Phạm thiên giáng xuống và cung thỉnh Đức Phật vì lòng từ bi mà đừng nhập niết
bàn. Các Phạm thiên nói rằng tuy cõi này chúng sanh tham mê ngũ dục như thế,
nhưng cũng có những chúng sanh khác ước ao muốn tìm con đường thánh thiện thoát
khổ và chán cõi ta bà này. Sau khi nghe như thế, Đức Phật đồng ý lưu lại cõi
ta-bà và ngài bắt đầu nói A hàm tức hệ Phật giáo Nguyên Thủy trong 12 năm, vì
thế chúng ta có năm bộ Nikaya[2] . Giáo lý Nguyên thủy nói về nguyên tắc đạo đức
và nhận ra sự hư vọng của sáu căn, sáu trần, sáu thức, buông bỏ tham, sân, si và
thoát lửa sanh tử. Các bài kinh như vòng luân hồi, tứ niệm xứ, thọ giới tỳ kheo,
tỳ kheo ni, cạo đầu xuất gia… đều là thuộc thời Phật giáo nguyên thủy (tức Phật
giáo thời kỳ đầu).
Sau 12 năm,
ngài bắt đầu chuẩn bị nói Đại thừa (tức Phật giáo thời kỳ phát triển) gọi là
thời Phương đẳng, thời sắp sửa hoàn thành Đại thừa, mở ra Đại thừa chứ chưa hoàn
mãn. Mới mở ra cho nên mới gọi là Phương đẳng hoặc là tiền Đại
thừa.
Phương là
vuông (vuông tròn, đầy đặn) đầy đủ ở khắp. Đẳng là bình đẳng tức bắt đầu sắp sửa
nói cái gì đó đầy đủ, bình đẳng giữa Phật và chúng sanh.
Từ thời Phương
đẳng trở đi là nói về đại thừa thì mới thật là đầy đủ, chứ về nguyên thủy là mới
nói về cái gốc thôi. Nhận thấy những hư vọng để buông đi tức là gốc tu của chúng
ta. Trước hết buông những hư vọng, biết thân hư vọng, biết vọng tâm, vọng cảnh,
buông nó ra đó là căn bản vì vậy gọi là nguyên thủy, nhưng thật ra chưa đầy đủ.
Muốn đủ còn nhận nữa lên đến đại thừa mới có sự thật, mới vào thật là Phật giáo.
Thế nên gọi là phương. Phương là đầy đủ. Đẳng là bình đẳng. Ai cũng có thể vào
được, chứ không phải có riêng biệt, chia ra những cao thấp. Không có chia ra
giáo lý nguyên thủy Thanh văn, những vị xuất gia là đầu tròn áo vuông, là bậc mô
phạm xuất thế, còn chúng sanh không tu là ô nhiễm, xấu xa, sanh tử…là không bình
đẳng, không xem trọng.
Rồi sau Phương
đẳng là nói giáo lý Bát nhã. Sau khi biết tướng hư vọng thì tánh là chân không,
là thật tướng, thế nên Bát nhã nói về lý tánh chân không thật tướng, là thể tánh
chân thật của vạn pháp, tức là hiển cái thực tướng ấy, nhưng mà hiển thực tướng
thôi, chứ chưa tuyên bố. Đức Phật nói Bát nhã như vậy là 22
năm.
Đến cuối đời,
thời Pháp Hoa, Đức Phật mới thọ ký cho Thanh Văn thành Phật và cho cả nữ nhân
(là thành phần hạ liệt trong xã hội Ấn độ cổ đại), cho nên đến Pháp Hoa mới thật
hứa khả cho đại chúng thành Phật đạo, nghĩa là tất cả đại chúng lớn, bé, già,
trẻ, nam, nữ, ai cũng sẽ thành Phật đạo. Ngay cả chúng ta tham lam, giận dữ, đủ
các thói xấu cho đến đọa làm con chó, con mèo mê muội tối tăm nhưng mà nếu đủ
duyên tỉnh ra mà tu học thì trở thành hiền thánh, thành thử ví như hoa sen. Tâm
địa của chúng ta cũng như thế, tỉnh ra thì thoát bùn tham, sân, si mà thành sen
tinh khiết.
Khó như vậy cả
hơn 40 năm đến giờ mới hé được. Ý định thật của Phật là khi giáng sanh tại thế
gian này muốn cho tất chúng sanh đều thành Phật cả. Đó là thật ý của Phật nhưng
vì căn cơ chúng ta thấp kém nên ngài phải phương tiện nói từ từ trong những năm
qua. Pháp hoa là thời chính thức tuyên bố thọ ký tất cả chúng sanh mọi giới đều
có khả năng thành Phật và thời Thủ Lăng Nghiêm là Đức Phật nói đầy đủ phương
pháp tu để thành Phật, nhận tánh Phật bình đẳng thường trụ đó và sau cùng là
thời Niết bàn nói về Đức Phật nhập diệt.
VÌ SAO
GỌI LÀ QUYỀN TẠM?
Nếu lúc đầu
nói mọi người thành Phật liền thì chúng ta cho là xa xôi, cao sâu, khó khăn và
mơ hồ. Còn đi làm thợ móng tay, trông coi trẻ con, đi buôn, đi làm công sở để
được nhiều tiền, để nuôi gia đình, làm ruộng để có lúa ăn, bán thực phẩm chay để
có tiền là những cái lợi trước mắt thì chúng ta nhận ra, còn bây giờ bảo chúng
ta tu để thành Phật, thì chúng ta còn ngại lắm, thấy khó khăn nên Đức Phật phải
quyền tạm, đặt ra những phương pháp cho chúng ta theo được, nên những pháp ấy
gọi là quyền tạm.
Ví dụ như mục
đích của Đức Phật không phải bảo chúng ta xuất gia là để cạo đầu mặc áo nâu
sòng. Đây là quyền tạm, mà chính là để dạy chúng ta rời những mối ràng buộc gia
đình.
Chúng ta cạo
đầu để buông bỏ những cái trang điểm thế gian. Rồi mặc áo lam, nâu không có màu
xanh xanh, đỏ đỏ cho bớt cái tham nhiễm ở ngoài đời, vì vậy Đức Phật đặt ra cái
phương pháp quyền tạm bảo chúng ta rời cha mẹ, rời gia đình vào chùa xuất gia;
chứ mục đích thật của Phật là muốn cho chúng ta thành Phật.
Đức Phật khỏi
cạo đầu cũng được, vì Đức Phật ở đâu Ngài cũng không bị ô nhiễm, cũng không bị
vướng mắc, nhưng chúng ta bây giờ phải quyền tạm, phải cạo đầu, xuất gia vào
chùa tu học, đó là mới một phần đường. Đức Phật phải quyền
tạm.
Thế cho nên
hết bộ kinh này đến kinh khác, cứ quyền cứ tạm, nào là học giới, học luật, nào
là hộ sáu căn, bố thí, nhẫn nhục… đều là quyền cả; tới đại thừa Đức Phật mới nói
thật. Mục đích của Đức Phật là muốn cho chúng ta được thành Phật là khai quyền
hiển thật.
Trong 49 năm
thuyết pháp, Đức Phật nói bao nhiêu kinh, đến khi sắp tịch, Đức Phật mới nói bộ
kinh Pháp hoa, Thủ Lăng Nghiêm... bắt đầu lúc bấy giờ Đức Phật mới khai quyền
hiển thật.
Chúng ta có
thể tạm hiểu qua hình ảnh của cơ thể: đôi chân là nguyên thủy, bụng là Phương
đẳng, Bát Nhã và đỉnh đầu là Pháp Hoa, Thủ Lăng Nghiêm và Niết bàn. Và từng phần
của thân thể này đều cần và giúp đỡ lẫn nhau để pháp thân Phật pháp được hiển
bày.
THỦ
LĂNG NGHIÊM THUỘC THỪA NÀO.
Mục đích
chuyên chở đến nơi nào thì gọi là thừa? Thừa là cổ xe và định chở đi đâu? Thủ
Lăng Nghiêm dạy Bồ tát thừa là cổ xe lớn, tuy vậy nhưng vẫn dạy tinh nghiêm giới
hạnh Thanh văn thừa, dạy cả nhân và thiên thừa trong bảy thú [3]. Thế nên, thật
sự là Thủ Lăng Nghiêm là Bồ tát thừa nhưng kiêm cả năm
thừa:
1. Nhân thừa:
dạy chúng ta giữ năm giới, không được sát, đạo, dâm, vọng và uống
rượu
2. Thiên thừa:
dạy chúng ta giữ thập thiện, tâm không được tham, sân, si, tu thiền để tiến lên
cõi trời
3. Thanh văn
thừa: dạy chúng ta buông xả sáu căn, sáu trần và sáu thức vì tất cả hư vọng
4. Bồ Tát
thừa: dạy chúng ta thực hành bồ tát hạnh tiến lên ngôi vị
Phật
5. Phật thừa:
dạy về tánh Phật
Thủ Lăng
Nghiêm kiêm năm thừa nhưng đặc biệt thật sự là Bồ tát thừa.
Thủ Lăng
Nghiêm thuần túy Bồ tát thừa, nhưng vẫn bắt buộc chúng ta tinh nghiêm giới hạnh
Thanh văn, vì từ sơ tâm đến viên mãn quả địa không rời ba tiệm thứ là trừ trợ
nhân sanh tử (không ăn năm thứ ngủ tân, không uống sữa tươi, mặc dùng áo hay đồ
lông thú), khoét bỏ tánh chúng sanh (tức giữ giới) và trái với nghiệp hiện tiền
(ngược dòng sanh tử); rồi giữ giới Thủ Lăng Nghiêm cho tinh nghiêm nghĩa là
chẳng những không sát, không đạo, không dâm, không vọng mà cho đến tánh đoạn
không sát, đoạn không dâm, đoạn không vọng đó cũng không còn… Khó lắm cho nên
gần cuối đời Đức Phật mới nói kinh Thủ Lăng Nghiêm, nên kinh Thủ Lăng Nghiêm
cũng gọi là Đại Phật đỉnh tức đỉnh đầu của Phật. Nếu nói lúc đầu thì sẽ không ai
dám tu cả. Như vậy, Thủ Lăng Nghiêm dạy tu Bồ tát thừa nhưng giới hạnh Thanh văn
vẫn giữ cho thật tinh nghiêm. Không những ăn chay mà còn không ăn những gì có
tinh khí, cho đến sữa hay dùng đồ lông thú. Những gì thuộc loài vật mình đều
không được dùng, cho nên giới trong Thủ Lăng Nghiêm kỹ càng tinh vi
hơn.
Thủ Lăng
Nghiêm là viên giáo nói về tánh Phật thường trụ ở khắp pháp giới. Bốn khoa (năm
ấm[4] , sáu nhập[5] , 12 xứ[6] , 18 giới[7] ) và bảy đại[8] đều là Như Lai Tạng.
Những ý này trong Thanh văn thừa tức thời Phật giáo Nguyên Thủy không
có.
Thủ Lăng
Nghiêm thuộc năm thừa tức Thủ Lăng Nghiêm cũng thuộc đồng giáo nhất thừa và kiêm
cả biệt giáo nhất thừa.
Nhất thừa là
đưa về quả vị Phật nhưng đồng giáo tức là đưa tất cả căn cơ về quả vị Phật, nên
gọi là đồng giáo nhất thừa. Nhưng kiêm biệt giáo nhất thừa là giáo lý riêng biệt
đưa thẳng về quả vị Phật, để thành Phật, bởi vì nói về chơn tâm bản tánh. Những
người nào học được giáo lý này mới biết đường trở lại tánh Phật bất động của
mình. Và mục đích Thủ Lăng Nghiêm đưa tất cả chúng sanh, tất cả căn cơ đồng
thành Phật nên gọi là đồng giáo nhất thừa.
Trước kia tùy
theo căn cơ của chúng sanh mà lập giáo pháp, lập ra từng đoàn thể, vì vậy chia
ra năm:
1. Đại thừa:
căn cơ cao nhất, chuyên học bồ tát thừa thì gọi là bồ tát, mới hứa khả sau này
sẽ thành Phật, có khả năng lớn mới hứa thành Phật.
2. Trung thừa:
Duyên giác quán sát 12 nhân duyên, phá vỡ một khoen thì 11 khoen khác sẽ tan, sẽ
chứng Độc giác. Duyên giác nhất định chỉ đến Bích Chi Phật.
3. Tiểu thừa:
các vị xuất gia, học giới luật, tu Tứ niệm xứ chuyển bốn đảo[9] cho đến chứng
quả A-la-hán, chuyên học tu để thoát luân hồi sanh tử thành thánh
A-la-hán.
4. Thiên thừa:
Các vị bình thường nguyện tu sanh về cõi trời. Các vị ấy phải tu thập thiện kiêm
thiền định và bố thí. Nếu không có thiền định thì không về cõi trời được. Cõi vô
sắc giới (tứ không)[10] , cõi sắc giới (tứ thiền)[11] và các cõi trời thấp nhất
như cõi trời dục giới (lục dục thiên)[12] vẫn phải có định. Có định nhưng còn
dục thì tái sanh các cõi trời dục giới. Ly dục, còn sắc thì lên cõi trời sắc
giới. Ly dục, ly sắc thì được lên cõi trời vô sắc giới.
5. Nhân thừa:
giữ năm giới[13] tinh nghiêm thì được làm người, những con người đứng
thẳng.
Đây là những
quyền tạm. Bây giờ lập thật là ý định thực sự của Phật, là cho ai cũng thành
Phật hết, nên gọi là nhất thừa, một cổ xe đưa tất cả về cảnh giới
Phật.
Quả vị Phật là
riêng cho các Bồ tát, còn tất cả không ai dám hi vọng đến việc mình được thành
Phật cả. A-la-hán còn không dám hi vọng huống chi là các nữ nhân, phàm phu chúng
ta. Phật là quả riêng của các Bồ tát, cho nên đến bây giờ tới bộ Pháp Hoa, Thủ
Lăng Nghiêm, Đức Phật mới khai mở cho chúng sanh hé thấy mình có thể thành Phật
được. Trong bộ Pháp Hoa, Đức Phật mới thọ ký cho Xá-lợi-phất, nàng Da-du-đà-la,
rồi ngay cả long nữ...; trong Thủ Lăng Nghiêm, Phật mới chỉ ra bốn khoa và thất
đại đều là Như lai tạng, bây giờ Đức Phật mới khai ra.
Nhất thừa là
xoá đi ranh giới năm. Không phải là năm cái khác nhau, riêng năm con đuờng mà
chính là một đường đi mà có năm nấc. Tới đại thừa, Đức Phật mới tuyên bố có con
đường ấy, là chính một chứ không phải năm.
Mỗi vị đi một
nấc. Nấc một là nhân thừa, nấc hai là thiên thừa, nấc ba là tiểu thừa, nấc bốn
là trung thừa và nấc năm là đại thừa. Trọn vẹn năm là đại thừa. Tuy nhiên, vẫn
lên nấc một, rồi nấc hai và ba mới thành Phật. Con đường dài mình vẫn phải đi,
vì vậy vẫn phải cạo đầu, đắp y, vẫn phải từng nấc một, từ thấp lên cao, chứ
không có phải leo thang bỏ nấc đâu, phóng lên cũng không
được.
Ý nghĩa chữ
nhất thừa và xoá tam lập Phật thừa như vậy, xoá là không phải bỏ đi mà chỉ bỏ
ranh giới không có chia thành năm hệ khác nhau, bỏ cố chấp mình là một phe
riêng, năm phe riêng, mạnh ai nấy đi, khác nhau mà chính là vẫn một con đường
nhưng có năm nấc.
THỦ
LĂNG NGHIÊM THUỘC TÔNG NÀO?
Thủ Lăng
Nghiêm rút ở bộ Quán Đỉnh Chương Cú là một trong năm bộ kinh lớn của mật
tông.
Trên sự thì
thuộc mật tông, nhưng lý thì thuộc hiển giáo vì được Đức Phật giảng giải khúc
chiết. Trong kinh Thủ Lăng Nghiêm có phần đại thần chú Thủ Lăng Nghiêm là mật,
những phần còn lại là kinh, là hiển giáo.
KINH
THỦ LĂNG NGHIÊM VÀ PHÁP HOA KHÁC NHAU THẾ NÀO?
Kinh Pháp Hoa
ra sức khuyến khích lưu thông để ổn định tâm trí kẻ đương cơ và nói toàn công
đức của thính chúng hâm mộ sẽ được những cái này, công đức này, phước báu kia để
chúng ta vui mừng đón nhận mà phấn chấn thực hành, mình sẽ thành Phật, thành bác
sĩ nếu mình muốn; còn trong khi kinh Thủ Lăng Nghiêm thì giảng tỉ mỉ phương pháp
tu thế nào để nhận tánh Phật và buông bỏ luân hồi. Còn A-hàm thì thuộc hệ nguyên
thủy. Trong 49 năm giáo hoá chúng sanh thì mất 22 năm để giảng Bát Nhã, tức đưa
lên Đại thừa khó và lâu dài như thế, tức chuyển giai đoạn từ gốc đến phát triển
khó như thế. Bát Nhã được gọi là khúc quanh chuyển giai đoạn, đưa từ một trạng
thái này đến một trạng thái kia.
ĐƯƠNG
CƠ THỦ LĂNG NGHIÊM: trong kinh Thủ Lăng Nghiêm toàn là các Bồ tát như
Văn-thù, Quan-thế-âm, Phổ-hiền, Đại-thế-chí... đứng lên trình bày sự tu chứng sở
đắc của mình, nhưng Đức Phật cứ gọi tôn giả A-nan, rồi tôn giả Phú-lâu-na đứng
lên hỏi… toàn các vị Thanh-văn làm đương cơ. Các tôn giả này cũng khen pháp Thủ
Lăng Nghiêm này chưa từng được nghe, Đức Phật chưa nói bao giờ bây giờ mới
nói.
KINH
THỦ LĂNG NGHIÊM THUỘC TẠNG NÀO?
Kinh Thủ Lăng
Nghiêm thuộc về tạng kinh nói về định (sa-ma-tha, tam-ma và thiền-na toàn là
định cả).
Thủ Lăng
Nghiêm thuộc về tạng luật nói về giới Thanh-văn (có những chỉ dạy giữ giới tinh
nghiêm như băng sương).
Thủ Lăng
Nghiêm cũng thuộc về tạng luận để phán định phân biệt phải, trái, chính, tà tức
là phần tuệ.
XUẤT
XỨ CỦA KINH THỦ LĂNG NGHIÊM
Kinh này được
xem là một gia bảo quý giá của Ấn độ. Ngài Trí Giả đại sư đã đảnh lễ kinh này
trong suốt 18 năm để cầu nguyện cho kinh được truyền sang Trung Quốc.
Chúng ta mang
ơn Tổ Bát Lặc Mật Đế vào đời Đường, năm thứ I, đã vượt biên qua Ấn độ và đã chép
kinh Thủ Lăng Nghiêm trên tấm lụa mỏng, hy sinh xẻ thịt giấu kinh bên trong, giả
trang làm vết thương để lọt vòng kiểm soát gắt gao tại biên giới Trung Ấn.
Chúng ta mang
ơn Tướng quốc Phòng Dung đã dùng chất hoá học để tẩy máu mủ trong lụa kinh ra và
nhuận bút cho bản kinh.
Chúng ta mang
ơn sư Du-già Thích-ca, chùa Chế-chỉ đã dịch kinh Thủ Lăng Nghiêm từ Phạn ngữ ra
Hán ngữ.
Và chúng ta
mang ơn Hòa Thượng Chân-giám (1932) dịch ra Việt văn; Hòa thượng Trí Siêu
(1945), cư sĩ Tâm Minh (1961), Tuệ Quang (1962), Hoà thượng Duy lực (1990) và
nhiều chư tôn đức nữa đã dịch bản Hán ngữ ra Việt ngữ để ngày nay chúng ta có
thể đọc thẳng văn kinh tiếng Việt và có thể hiểu được.
ĐỊNH
NGHĨA
Thủ Lăng
Nghiêm nói đủ là Đại Phật Đỉnh Thủ Lăng Nghiêm, là nhục đảnh của đức Thế tôn.
Tàu dịch là viên định tự tánh: bản lai tự tánh của mình, tự mình vốn có, bản lai
vẫn viên định, không phải do tu mà thành, vốn sẵn như thế. Bản chất và bản tánh
của mình vốn định. Động loạn là những thói quen mới huân tập. Chúng ta phải bỏ
thói quen này đi, trở về tánh định của mình, định này gọi là viên định, bởi vì
tự tánh của mình là bản thể của vạn pháp.
An định vào
tánh nghe, nhận được cái định ở khắp pháp giới cho đến chứng quả. Thế là cực
quả, đi đến mục đích để thành Phật. Định này là tánh cụ, vốn mình vẫn sẵn đủ,
không phải tu tập gì cả.
Viên là tròn
đầy, đầy đủ, không thiếu tí nào cả, ở khắp cả, không chỗ nào nó không an định
cả, không một lúc nào nó không có, hoàn toàn. Nhận lấy tánh này là nó viên dung,
bởi nó là tánh thể của tất cả nên gọi là viên. Từ bầu trời cho đến trong lòng
trái đất, trên cạn dưới sâu, ngắn dài rộng hẹp, chỗ nào cũng là diệu chân như
tánh. Trong kinh Thủ Lăng Nghiêm nói bốn khoa, thất đại duy Như lai tạng, bởi vì
Như lai tạng là đất, nước, gió, lửa, mà đất, nước, gió, lửa cũng là Như lai tạng
cho nên chỉ là Như lai tạng thôi.
Tánh viên định
này ở nơi mắt là tánh thấy, nơi tai là nghe, nơi mũi là ngữi, nơi miệng là nếm,
nơi thân là xúc và nơi ý là biết. Chúng ta từ sáng đến tối thấy đủ mọi việc,
nhỡn thức sanh rồi diệt, diệt rồi sanh. Con mắt có khi cận, khi viễn, khi tốt,
khi đau, khi bịnh yếu rồi ngày mai nó cũng tan rã thành không, nhưng tánh thấy
của mình, từ trẻ đến già, từ kiếp này sang kiếp khác, không biến đổi, nó vẫn là
nó, một tánh viên định. [1] Phương Đẳng có 9 kinh
là: 1/ Kinh Hoa nghiêm 2/ Pháp Hoa 3/ Phương Đẳng 4/ Lăng Già 5/ Bát Nhã 6/ Kim
Cang 7/ Di Đà 8/ Giải Thâm Mật 9/ Lăng Nghiêm. [2] Năm bộ Nikaya như Trường Bộ, Trung Bộ, Tăng Chi, Tương Ưng và Tiểu bộ. [3] Bảy cõi: trời, a-tu-la, tiên, người, địa ngục, ngạ quỷ và súc sanh. [4] Năm ấm: sắc, thọ, tưởng, hành và thức. [5] Sáu nhập: mắt, tai, mũi, lưỡi, thân và ý. [6] 12 xứ: 6 căn (mắt, tai, mũi, lưỡi, thân và ý) và 6 trần (sắc, thanh, hương, vị, xúc và pháp). [7] 18 giới: 6 căn, 6 trần và 6 thức (nhãn thức, nhĩ thức, tỵ thức, thân thức và ý thức). [8] 7 đại: địa đại, thủy đại, hoả đại, phong đại, không đại, kiến đại và thức đại. [9] Bốn đảo: -Thân bất tịnh cho là tịnh. -Thọ thì khổ cho là vui. -Tâm vô thường cho là thường. -Pháp vô ngã cho là ngã. [10] Tứ không: -Trời Không Vô biên xứ - Trời Thức Vô biên xứ - Trời Vô sở hữu xứ - Trời Phi tưởng phi phi trưởng xứ. [11] Tứ thiền: sơ thiền, nhị thiền, tam thiền và tứ thiền. [12] Lục dục thiên: - Tứ Thiên Vương Thiên - Đao Lợi Thiên - Tu Diệm Ma Thiên - Đâu Suất Đà Thiên - Lạc Biến Hóa Thiên - Tha Hóa Tự Tại Thiên. [13] Năm giới: không sát sanh, không trộm cướp, không tà dâm, không nói láo và không uống rượu. CHƯƠNG II NHÂN DUYÊN NÓI KINH Khi ấy
vua Ba-tư-nặc, nhân ngày kỵ phụ vương, mở tiệc chay mời Phật thọ trai nơi cung
điện. Vua sắm đủ các món ăn quý báu, rồi thân đến rước Phật và các vị Đại Bồ
tát. Trong thành lại có các trưởng giả cư sĩ đồng thời cũng trai tăng, chờ Phật
đến chứng. Phật khiến ngài Văn-thù chia lãnh các vị Bồ-tát và A-la-hán đi đến
các nhà trai chủ.
Duy có
tôn giả A-nan trước đã nhận lời mời riêng, đi xa chưa về, không kịp dự hàng tăng
chúng. Tôn giả về một mình, không có Thượng tọa và A-xà-lê cùng đi và ngày ấy
cũng không được ai cúng dường. Lúc bấy giờ, tôn giả cầm bình bát vào trong một
thành, trên đường đi, theo thứ lớp khất thực, tâm ngài trước hết cầu được một
người tối hậu đàn việt làm trai chủ, không kể sang hèn, phát tâm làm sao cho tất
cả chúng sanh được viên thành vô lượng công đức. Tôn giả A-nan đã biết đức
Thế-tôn quở tôn giả Tu-bồ-đề và Đại Ca-diếp làm A-la-hán mà tâm không công bằng.
Tôn giả kính vâng lời dạy vô giá của Phật độ thoát mọi điều chê bai nghi hoặc.
Ngài đến bên thành, thong thả vào cửa, uy nghi nghiêm chỉnh, kính giữ phép hóa
trai.
Trong
khi khất thực, tôn giả đi ngang qua nhà người dâm nữ Ma-đăng-già bị phép huyễn
thuật. Nàng ấy dùng tà chú Tiên Phạm thiên đạo Sa-tỳ-ca-la bắt vào phòng riêng
dựa kề vuốt ve làm cho tôn giả A-nan gần phá giới
thể.
Đức
Như-lai biết A-nan mắc phải dâm thuật, nên dùng trai rồi, liền trở về tịnh xá.
Vua cùng đại thần, trưởng giả cư sĩ đều đi theo Phật, mong nghe những pháp chủ
yếu của đạo Phật.
Khi ấy
trên đỉnh đức Thế Tôn phóng hào quang bách bảo vô úy, trong hào quang hiện ra
toà sen báu nghìn cánh, có hoá thân của Phật kiết già ngồi trên, tuyên đọc thần
chú, khiến ngài Văn-thù đem chú này đến giúp đỡ, tiêu diệt tà chú, đưa A-nan
cùng Ma-đăng-già đều đến chỗ Phật ở. [1]
Nhân duyên
chúng ta có kinh Thủ Lăng Nghiêm để học là do có một chuyện xảy ra với tôn giả
A-nan.
Tôn giả A-nan
là anh em họ với Phật. Thân phụ của thái tử Sĩ-đạt-đa là Tịnh Phạn vương, còn
thân phụ của A-nan là Bạch Phạn vương (bào đệ của Tịnh Phạn vương). Đề-bà-đạt-đa
là hiền huynh của A-nan. Sau khi xuất gia, tôn giả A-nan, một trong thập đại đệ
tử của Phật, trở thành thị giả thân tín của Phật và được mệnh danh là bậc đa văn
đệ nhất, có thể ghi nhớ những lời dạy của Phật chính xác như in. Sau khi Đức
Phật nhập diệt, chúng ta nhờ Tôn giả rất nhiều trong việc kết tập kinh điển, nói
ra hàng trăm bài pháp mà Đức Phật đã giảng nhiều nơi với nhiều thời điểm. Phật
tử cũng rất thích nghe A-nan giảng pháp vì tôn giả vừa trẻ trung, rất hảo tướng
và thuyết pháp rất trôi chảy lưu loát.
Các tổ có bài
kệ tán thán tôn giả A-nan như sau:
Tướng như thu
mãn nguyệt Nhãn tợ thanh liên hoa Phật pháp như đại hải Lưu nhập A-nan tâm. Nghĩa
là:
Tướng như
trăng thu đầy Mắt biếc tợ sen xanh Phật pháp rộng như bể Đều rót vào tâm A-nan. [2] Một ngày kia,
tôn giả A-nan có phật sự xa về trễ, Đức Phật và chư tăng đã đi hoá trai ở cung
vua Ba-tư-nặc. Sợ trễ giờ độ ngọ, nên tôn giả phải đi khất thực một
mình.
Tâm
ngài trước hết cầu được một người tối hậu đàn việt làm trai chủ, không kể sang
hèn, phát tâm làm sao cho tất cả chúng sanh được viên thành công đức
nghĩa là người nào mà chưa tu, chưa biết Phật pháp, chưa có phước, tôn giả A-Nan
muốn mở đường phước đức cho họ, đến đó thọ trai.
Ngài
thong thả vào cửa, uy nghi nghiêm chỉnh, kính giữ phép hóa trai: thong
thả vào cửa thành, từ bộ quách môn, túc cung trai pháp tức tôn giả từng bước rất
từ hoà, khoan thai điềm tĩnh, an hoà mà bước vào thành khất thực.
Đức
Thế-tôn quở tôn giả Tu-bồ-đề và Đại Ca-diếp làm A-la-hán mà tâm không công
bằng: tôn giả Tu-bồ-đề chuyên đi khất thực nhà giàu trong khi tôn giả
Đại Ca-diếp chuyên đi khất thực nhà nghèo. Bởi ngài Ca-diếp cho rằng nghèo là
bởi vì người ta kém phước, nên tạo phước cho họ. Họ chỉ cần phát tâm muốn cúng
đường tức là đã bán cái nghèo và đã trở thành giàu rồi. Chỉ cần phát tâm hổ thẹn
là bán cái thiếu hụt về quần áo che thân mà tạo phước có quần áo ăn mặc đầy đủ
rồi. Vì vậy ngài Ca diếp chuyên đi khất thực nhà nghèo.
Ngài Tu-bồ-đề
do định lực mạnh và do phép quán tưởng về tánh không mạnh nên lúc ngài vừa lọt
lòng, ông bà thân sinh và cả nhà thấy trong phòng trống rỗng, của cải đồ đạc
biến mất. Còn ngài Xá lợi phất cũng thế. Sức trí tuệ của ngài đã ảnh hưởng mạnh
nên khi ngài còn nằm trong bào thai, đã khiến thân mẫu trở nên ăn nói lưu loát,
biện luận khúc chiết mọi triết lý trên đời. Riêng thái tử A-xà-thế tâm ác mạnh
nên khi hoàng hậu Vi-đề-hy mang thai khiến bà thèm khát hút máu phu quân khi ốm
nghén. Tất cả đây đều là do từ trường của tâm phát ra hay tinh thần thế nào thì
có sự ảnh hưởng xung quanh thế ấy.
Do sức quán
tưởng mạnh và lòng ngài rỗng rang buông xả không vướng mắc, nên tôn giả Tu-bồ-đề
không ngại lời đàm tiếu rằng ngài chỉ thích đi khất thực nhà giàu. Vì ngài nghĩ
rằng nếu nhà giàu có cúng dường bố thí thì cũng không ảnh hưởng miếng ăn của họ,
nên mặc người phàm đàm tiếu cho rằng ngài thích ăn đồ ngon, nên lựa khu sang
trọng mà đi khất thực, ngài vẫn đều hoá độ nhóm nhà giàu.
Tôn giả A-nan
nhớ hai đại sư huynh đều bị Phật quở cả. Đức Phật thì bình đẳng không phân biệt
sang hèn gì cả, ai cúng thì ngài thuyết pháp độ họ.
Mỗi ngày vào
lúc bình minh, Đức Phật thiền tọa và rải từ bi quán đến mười phương và sau đó
dùng dùng tuệ nhãn quán xem chúng sanh ở hướng nào, làng nào thời tiết đã đến,
cần ngài đến hoá độ thì Đức Phật sẽ từ tốn, oai nghi thanh thoát, siêu phàm đi
khất thực về hướng đó để khất thực.
Nghe Đức Phật
quở trách hai đại sư huynh là tôn giả Ca-diếp và Tu-bồ-đề là tâm không bình đẳng
khất thực, nên A-nan khởi tâm đến hoá độ ở khu vực nào mà họ ít biết phát tâm,
bất kể họ giàu nghèo hay thuộc loại người nào, ngài không phân biệt gì cả. Do
đó, tôn giả đi ngang qua nhà kỹ nữ Ma-đăng-già và bị nàng dùng chú Phạm thiên
thôi miên tôn giả để đưa vào phòng thỏa mãn dục tính.
Một bề
học rộng nhớ nhiều, chưa toàn đạo lực: nghĩa là tôn giả A-nan không có
khả năng tự chủ, đưa đến mất chánh niệm trước sắc đẹp tuyệt vời của kỹ nữ.
Đức Phật cùng
chư tăng đang thọ trai tại cung vua Ba-tư-nặc. Với thiên nhãn, Phật biết A-nan
đang sắp bị nạn Ma-đăng-già và gần phá giới thể nên Đức Phật bảo tôn giả Văn-thù
đem thần chú Thủ Lăng nghiêm đến cứu A-nan. Từ trên đỉnh đầu Phật biến ra hóa
thân Phật tuyên đọc thần chú.
Có hoá
thân của Phật kiết già ngồi trên thiền tọa, tuyên đọc thần chú: nói hoá
thân tức là từ pháp thân hoá hiện. Đây là diệu dụng của pháp thân mà pháp thân
thì khắp 10 phương suốt ba đời là thân giáo, tức thần chú có hữu hiệu khắp tất
cả 10 phương ba đời chứ không phải chỉ từ miệng đức Phật Thích Ca nói. Nếu nói
do chính từ Phật Thích Ca nói thì sợ kẹt vào tính địa phương (địa danh là tại
thành vua Ba-tư-nặc) cho rằng thần chú nói ở đó mới hữu nghiệm hoặc thần chú chỉ
hữu dụng, cần thiết cho thời gian lúc đó thôi tức cách đây 26 thế kỷ, chứ bây
giờ hay lúc khác thì không hữu hiệu. Thế nên, thần chú phải từ pháp thân nói với
ý nghĩa cho suốt cả ba đời (quá khứ, hiện tại và vị lai) và ở mười phương (đông,
tây, nam, bắc, đông nam, tây nam, đông bắc, tây bắc, trên và dưới) đều linh ứng.
Tôn
giả A-nan thấy Phật, đảnh lễ khóc lóc, giận mình từ vô thủy đến nay, một bề học
rộng nhớ nhiều, chưa toàn đạo lực, tha thiết xin Phật dạy cho những phép
sa-ma-tha, tam-ma, thiền-na, là những phương tiện tu hành đầu tiên để thành đạo
bồ-đề của thập phương Như-lai. Lúc ấy, lại có hằng hà sa Đại Bồ-tát, Đại
A-la-hán và Bích-chi Phật, từ mười phương đến, thảy đều mong nghe Phật dạy, lui
về chỗ ngồi, yên lặng lãnh thọ thánh chỉ của Phật.
[3]
A-nan thấy
Phật tủi khóc và xin ngài chỉ dạy pháp Sa-ma-tha, tam-ma, thiền-na, là những
phương tiện tu hành đầu tiên để thành đạo bồ-đề của thập phương Như-lai. Vì lý
do đó, Đức Phật mới thuyết giảng về Sa-ma-tha, tam-ma, thiền-na tức là nội dung
của kinh Thủ Lăng Nghiêm.
1. Sa-ma-tha
(chỉ): vi mật quán chiếu, an định tinh thần để xét tâm hiện tại của mình đâu là
chơn, đâu là vọng. Tức phần này là chúng ta phải hiểu về lý thuyết phân biệt rõ
ràng giữa chơn và vọng, căn bản bồ đề và căn bản sanh tử.
2. Tam-ma
(định): thực hành trở về phần chân, căn bản bồ đề.
3. Thiền-na
(huệ): ứng dụng chân ngay vọng, bồ đề ngay sanh tử. Chân tức là vọng, vọng tức
là chân. Hậu đắc trí hiển hiện sau khi có căn bản trí. Đây là pháp chuyển y của
Như lai: chuyển phiền não thành Bồ đề, chuyển sanh tử thành Niết bà của Như
Lai. [1] Kinh Thủ Lăng Nghiêm,
Tâm Minh biên dịch, NXB Tp HCM, 1999, tr. 31-3. [2] Thập đại đệ tử Phật, Eastwest Printing, 1999, tr. 98. [3] Kinh Thủ Lăng Nghiêm, tr. 33. GẠN HỎI CÁI TÂM Phật
bảo A Nan: “Tôi với thầy đồng phái, tình như anh em ruột; lúc thầy mới phát tâm
thì ở trong Phật pháp, thấy những tướng tốt gì mà bỏ được những ân ái sâu nặng
thế gian?”
A Nan
bạch Phật: “Con thấy 32 tướng của Như Lai tốt đẹp lạ thường, hình thể sáng suốt
như ngọc lưu ly, thường tự suy nghĩ: Tướng ấy không thể do dục ái sinh ra. Vì
sao? Giống dâm dục nhơ nhớp, tanh hôi kết cấu, máu mủ xen lộn, làm sao sinh được
thân vàng thắm chói trong sạch sáng suốt như vậy, nên con ước mong cắt tóc theo
Phật tu học”.
Phật
dạy: “Hay thay, A Nan, nên biết hết thảy chúng sinh từ vô thỉ đến nay sống chết
nối luôn, đều do không biết thể tính trong sạch sáng suốt của thường trụ chân
tâm mà lại chỉ dùng các vọng tưởng, vì vọng tưởng đó không chân thật nên mới có
luân hồi. Nay thầy muốn học đạo vô thượng Bồ đề, phát minh chân tính thì nên lấy
tâm ngay thẳng mà đáp lại những câu hỏi của tôi. Thập phương Như Lai đều do một
đường thoát ly sinh tử là dùng tâm ngay thẳng. Tâm mà nói là ngay thẳng thì cứ
như vậy, từ địa vị đầu đến địa vị cuối cùng, chặng giữa, hẳn không có những
tướng quanh co”.
A Nan,
nay tôi hỏi: “Đương khi thầy do 32 tướng của Như Lai mà phát tâm thì thầy đem
cái gì mà thấy và cái gì ưa
muốn?”
A Nan
bạch Phật: “Thưa Thế Tôn, ưa muốn như vậy là dùng cái tâm và con mắt của con. Do
mắt thấy tướng tốt Như Lai, tâm sinh ưa muốn nên con phát tâm muốn tu hành thoát
khỏi sống chết”.
Phật
bảo A Nan: “Như lời thầy nói: Thật do tâm và con mắt mà nó ưa muốn. Nếu không
biết tâm và con mắt ở đâu thì không thể hàng phục được trần lao; ví như vua một
nước bị giặc xâm lấn, phát binh đánh dẹp, thì binh ấy cần biết giặc ở chỗ nào
mới đánh dẹp được. Hiện thầy còn mắc phải luân hồi là lỗi tại tâm và con mắt.
Nay tôi hỏi: “Tâm và con mắt ấy hiện ở chỗ nào ?”
[1]
Ta thấy Đức
Phật rất tâm lý. Ngài nâng dắt cho A-nan đỡ tủi thân, có chỗ tin cậy, nương tựa,
không có lo sợ, âu sầu, xấu hổ về lỗi của mình nên nói rằng Tôi với thầy
đồng phái, tình như anh em ruột: Đức Phật tỏ ra thân mật, an ủi thương
xót, chúng ta là đồng khí huyết như anh em ruột để A-nan yên lòng. Rồi ngài mới
bắt đầu hỏi để chỉ cho A-nan thấy cái gì khiến A-nan luân chuyển? Nguyên nhân gì
khiến A-nan bỏ cung điện để trở thành bậc sa-môn như thế
này.
Hết
thảy chúng sinh từ vô thỉ đến nay sống chết nối luôn: trong cuốn sách
‘Vòng Luân Hồi’ mục Danh và Sắc[2] vẽ hình người lái đò đang lái thuyền trên
dòng sông sanh tử. Người lái đò là tâm, thuyền là thân, dòng sông sanh tử là
mang hết thân này đến thân khác triền miên từ vô thủy đến nay sống chết nối luôn
là do anh lái đò chỉ huy lèo lái, tức do tâm của mình. Thế nên, mục đầu tiên ở
đây là Đức Phật gạn hỏi về cái tâm. Do tâm gì mà A-nan luân chuyển thành Sa-môn
và do tâm gì mà sanh lòng ái luyến cô Ma-đăng-già?
Thập
phương Như Lai đều do một đường thoát ly sinh tử là dùng tâm ngay
thẳng: vì giả dối quanh co là tướng của mê muội tối
tăm.
Đức Phật ra
đời cốt chỉ cho chúng ta một con đường thoát, một con đường cứu khổ chúng sanh,
thoát khổ luân hồi. Vì luân hồi mà có thân sanh và chết. Nay làm phước được sanh
lên cõi trời, người; mai làm tội lại rớt vào địa ngục, ngạ quỷ, bàng sanh. Hễ
thiện thì thăng lên, nhưng rồi ác thì đọa và đi xuống. Sanh tử luân hồi là gốc
của tất cả biển khổ, biển trầm luân.
Muốn thoát khổ
thì phải tìm gốc của khổ, như muốn giết giặc thì phải biết sào huyệt của giặc;
như muốn thường trụ an vui thì phải gieo nhân thường trụ an vui. Thế cho nên
phải tìm gốc, tìm nguyên nhân vì sao chúng ta lại luân hồi sanh tử và vì sao mà
Đức Phật lại được thường trụ an vui?
Trước khi đưa
A-nan vào chánh pháp, Đức Phật muốn A-nan nhận ra chỗ hiểu của A-nan là đúng hay
sai? Nên ngài vặn hỏi câu này câu kia, để A-nan thấy bịnh của mình. Bây giờ
A-nan xin cầu pháp giải thoát luân hồi sanh tử? Thế thì Đức Phật hỏi vì sao
A-nan đang bị luân hồi ngay trong đời hiện tại này?
Vì sao A-nan
đang là một vị hoàng tử hưởng đầy phúc báo của loài người, được cung phụng hầu
hạ, ăn đầy những món cao lương mỹ vị, lên xe xuống ngựa, sống trong cung vàng
điện ngọc, vợ đẹp con ngoan, đi dép vàng, ngồi ngai vàng, ngủ cũng giường vàng
mà bỗng nhiên phát tâm trở thành sa-môn đi chân đất, ngày mỗi bữa phải cầm bình
bát đi khất thực ăn xin (đối với thế gian, nhất là hoàng gia mà đi ăn xin khất
thực là một điều nhục nhã lắm mà A-nan đã làm được). Đó là hai cuộc đời chuyển
đổi. Chính A-nan đang luân hồi trong hiện tại. Luân hồi nghĩa là luân chuyển từ
trạng thái sang trạng thái khác hay từ hình tướng này sang hình tướng khác. Thế
cho nên phải tìm nguyên do ngay trong giờ phút hiện tại
này.
Và xem cái
luân chuyển kế tiếp là gì? sẽ hoàn tục vì yêu thích nàng Ma-đăng-già? Bởi lẽ nếu
không có đại thần chú Thủ Lăng nghiêm yểm trợ thì tôn giả A-nan sẽ dễ dàng đánh
mất chánh niệm.
Câu hỏi thứ
nhất Đức Phật hỏi vì sao luân chuyển xuất gia như thế? Tôn giả trả lời nhanh
gọn, thẳng thắn và minh bạch rằng: Con thấy 32 tướng của Như Lai tốt đẹp
lạ thường, hình thể sáng suốt như ngọc lưu ly, thường tự suy nghĩ: Tướng ấy
không thể do dục ái sinh ra. Vì sao? Giống dâm dục nhơ nhớp, tanh hôi kết cấu,
máu mủ xen lộn, làm sao sinh được thân vàng thắm chói trong sạch sáng suốt như
vậy, nên con ước mong cắt tóc theo Phật tu học.
Nghĩa là
nguyên nhân là do Tôn giả A-nan gặp cảnh trần, sáu căn thấy sáu trần nên tâm
động. Gặp Phật chuyển về thiện nên đi đường thiện, thế phát xuất gia. Gặp nàng
Ma-đăng-già chuyển về đường ái nhiễm nên đi đường sa ngã, suýt nữa đánh mất
chánh niệm. Thế nên ngay một câu trả lời của A-nan đã minh bạch con đường luân
hồi của tôn giả đã chấm dứt.
Muốn giết giặc
thì phải biết giặc ở chỗ nào, muốn biết vì sao A-nan luân chuyển giữa thiện ác,
giữa hai cuộc đời thì phải biết cái tâm đó ở đâu, nên Đức Phật hỏi A-nan mắt
thấy 32 tướng tốt của Phật, sinh tâm khát ngưỡng và tâm yêu thích vẻ mỹ miều
xinh đẹp của nàng Ma-đăng-già ấy, vậy tâm và con mắt ấy ở đâu?
A-nan trải qua
bảy lần tìm tâm như sau:
1.
Chấp tâm trong thân: A-nan bảo mười loài chúng sanh đều biết
tâm yêu thích tức tim và tâm chúng con (my heart, mind) rõ ràng là nó nằm trong
thân. Phật nói tâm đó biết đủ thứ trên trời dưới biển, chuyện người này người kia, nếu nó nằm trong thân thì nó phải biết, phải thấy được ruột gan, bao tử, phèo phổi, tim gan của A-nan trước khi thấy bên ngoài chứ? Nếu nó không thấy được như thế thì ý nghĩa cho rằng tâm bên trong, không thể thành lập được. 2.
Chấp tâm ngoài thân: vậy chắc tâm con nằm ở ngoài, vì không
thấy bên trong mà lại biết bên ngoài, cũng giống như đèn thắp sáng bên ngoài,
thì trong phòng sao thấy được. Như tâm ở ngoài nên biết đủ chuyện trên trời dưới
biển, khắp thế giới, nhưng không ở bên trong nên không thấy ở trong ruột gan
được. Phật bảo nếu nó ở ngoài thân thì nó có liên quan gì đến A-nan, chẳng khác nào thân người này mà tâm người khác, như một người ăn cơm mà người khác no giùm. 3.
Chấp tâm núp sau con mắt: Không thấy bên trong ruột gan vì tâm
không ở trong thân mà lại thấy bên ngoài, vậy tâm hay biết của con chắc núp sau
con mắt như người lấy cái ly úp lên mắt, mắt thấy thì phân biệt được liền, không
bị ngăn ngại. Phật bảo nếu vậy thì tâm phải thấy con mắt trước khi thấy cảnh
vật, cũng giống như mắt thấy cái ly chụp nơi con mắt trước khi thấy cảnh sắc bên
ngoài. Nên nghĩa này cũng không thành lập được.
4.
Nhắm mắt thấy tối là thấy bên trong thân: A-nan lại nghĩ phủ
tạng ở trong, khiếu huyệt bên ngoài. Có tạng thì tối, có khiếu thì sáng, nên con
nghĩ rằng mở mắt thấy sáng là thấy bên ngoài, nhắm mắt thấy tối là thấy bên
trong, không biết nghĩa ấy thế nào, cầu Phật từ bi thương xót chỉ
dạy.
Phật bảo nếu
nhắm mắt thấy tối là thấy trong thân, vậy ban đêm không đèn thì những gì trong
phòng tối đó đều là tam tiêu[3] lục phủ[4] của A-nan sao? Và nếu mở mắt thấy
sáng là thấy bên ngoài, vậy mở mắt sao không thấy cái mặt A-nan trước khi thấy
cảnh sắc bên ngoài?
5.
Chấp tâm hợp với chỗ nào thì liền có ở chỗ ấy: A-nan thưa: con
thường nghe Phật dạy do tâm sanh nên các pháp sanh; do pháp sanh nên các thứ tâm
sanh, như vậy thì hễ hợp chỗ nào thì tâm liền có chỗ đó.
Phật bảo cái
tâm ấy nếu không có tự thể thì không thể hợp được. Còn nếu có tự thể thì khi
A-nan gãi đầu, cái tâm biết gãi đó từ trong thân ra hay từ bên ngoài thân vào?
Nếu từ trong thân ra thì phải thấy bên trong. Nếu từ bên ngoài thân vào thì
trước hết phải thấy cái mặt. Đức Phật nói tiếp: Tâm hay biết đó có một thể hay
nhiều thể? Nếu một thể thì khi gãi cả tứ chi đều biết. Nếu cả tứ chi đều biết
thì không biết gãi ở chỗ nào. Còn nếu nhiều thể thì nhiều người, cái nào là thể
của A-nan?
6. Tâm
ở chặng giữa: A-nan lại thưa: con hay nghe Phật nói thật tướng với các
vị Pháp vương tử như ngài Văn thù rằng: tâm không ở trong cũng không ở ngoài,
con nghĩ chắc nó ở giữa căn và trần. Phật bảo ở giữa thì giữa cái nào? nếu không nêu ra được thì không gọi là giữa mà nêu ra được thì không nhất định là giữa, ví như cắm cái cọc làm giữa. Người ở phương đông trông qua, thì cái cọc lại ở phương tây. Còn phương nam nhìn qua thì cọc ở phương bắc. Nếu tâm ở giữa căn và trần thì gồm cả hai bên hay không gồm cả hai bên? Nếu gồm hai bên thì ngoại vật và tâm thể xen lộn lấy gì làm tâm. Ngoại vật thì không biết, tâm thì biết lấy gì làm chính giữa? 7.
Chấp tâm không dính dáng vào đâu tất cả: Thưa Thế tôn, con cũng
nghe Thế tôn chuyển pháp luân với bốn vị đại đệ tử là Mục-kiền-liên, Tu-bồ-đề,
Phú-lâu-na, Xá-lợi-phất rằng cái tính hay biết của tâm cũng chẳng ở trong, cũng
chẳng ở ngoài, cũng chẳng ở chặng giữa, chẳng ở chỗ nào cả, không dính dáng vào
đâu cả thì gọi là tâm.
Phật hỏi: vậy
những vật mà tâm không dính dáng đó là có hay không có? Nếu không thì như lông
rùa sừng thỏ lấy gì mà không dính dáng. Còn nếu có tướng thì có chỗ ở là biết
rồi, làm sao lại không dính dáng được. Thế cho nên cho rằng cái không dính dáng
vào đâu cả là tâm của A-nan, điều này không thành lập được.
Tóm lại, bảy
lần tìm tâm đều bị Phật bác là không phải tâm của A-nan. A-nan và đại chúng rất
kinh hãi, nếu không phải tâm vậy tâm hay biết đó nó là cái gì? Chúng ta quen
nương tựa vào một cái gì đó. Tánh nương tựa đó thành thói quen thành nghiệp. Tìm
tâm cũng thế, chúng ta phải nương một danh từ một cái gì đó vào tâm mình và cho
đó là tâm của mình, nhưng nay đều bị Đức Phật bác bỏ cái đó rõ ràng không phải
là tâm của chúng ta. A-nan và đại chúng thật kinh sợ nên bạch xin Phật chỉ dạy
tiếp. [1] Kinh Thủ Lăng Nghiêm,
tr. 35-7. Từ đoạn này trở đi, tác giả xin phép đổi các đại từ nhân xưng trong văn dịch của ĐH. Tâm Minh:‘tôi’, ‘ông’ thành ‘tôi’, ‘thầy’, ‘con’. [2] TN Giới Hương., Vòng Luân Hồi, NXB Phương Đông, 2008, tr. 88. [3] Tam tiêu: -Thượng tiêu (ngăn trên): chứa tim, gan, phổi -Trung tiêu (ngăn giữa): chứa bao tử, là lách, ruột non. -Hạ tiêu (ngăn dưới): chứa bọng đái, ruột già. (Tự điển Việt Nam, Trần văn Đức, Khai trí, 1970, trang 1344). [4] Lục phủ: tam tiêu, bao tử, gan, bong bóng, ruột non và ruột già. (Tự điển Việt Nam, Trần văn Đức, Khai trí, 1970, trang 847). Tam tiêu thông suốt, không trì trì giúp cho lục phủ lưu thông. Lục phủ có nhiệm vụ thâu nạp thức ăn, tiêu hoá, bài tiết được thuận lợi, cơ năng sinh sản có sức tiếp, giữ vừng trạng thái bình thường của cơ thể tức là âm dương thân bằng, cơ thể khoẻ mạnh. HAI CỖI GỐC: THƯỜNG TRỤ VÀ LƯU CHUYỂN Khi bấy giờ
A-nan liền từ chỗ ngồi đứng dậy, bày vai áo bên phải đảnh lễ thưa Phật rằng tôn
giả là em rất nhỏ của Phật, được Phật thương yêu. Tuy được xuất gia, còn ỷ nơi
lòng thương của Phật, nghĩ Phật sẽ gia hộ. Vì vậy, tuy con học rộng nghe nhiều,
mà chưa chứng quả vô lậu, bị thần chú của Ma-đăng-già bắt, nguyên do vì con
không biết đường tu tập đi đến chỗ chân thật. Xin đức Thế Tôn đại từ thương xót
chỉ dạy cho chúng con pháp Sa-ma-tha tức pháp đại định để đừng có luân chuyển,
luân hồi, biến hoá kiếp này sang kiếp khác.
Lúc đó
Phật bảo A Nan: Tất cả chúng sinh từ vô thỉ đến nay điên đảo nhiều cách, giống
nghiệp tự nhiên nhóm lại như chùm quả ác xoa. Những người tu hành không thành
được đạo vô thượng Bồ đề, đến nỗi lại thành Thanh Văn, Duyên Giác hoặc thành
ngoại đạo, chư Thiên, Ma vương hay bà con Ma, đều do không biết hai chữ cỗi gốc,
tu tập sai lầm, cũng như nấu cát mà muốn thành cơm, dầu trải qua nhiều kiếp như
vi trần, rốt cuộc vẫn không thể thành được.
Thế
nào là hai thứ cỗi gốc?
A Nan,
một là cái cỗi gốc sống chết vô thỉ, tức như A-nan ngày nay cùng các chúng sinh
dùng cái tâm phan duyên mà làm tự tính.
Hai là
cái thể bản lai thanh tịnh Bồ đề Niết Bàn vô thỉ thì như hiện nay cái tính bản
minh thức tính của A-nan, sinh ra các duyên mà lại bị bỏ rơi. Do các chúng sinh
bỏ rơi cái bản minh ấy nên tuy cả ngày sống trong tính bản minh mà không tự
giác, oan uổng vào trong lục đạo. [1]
Đây là phần
kiến đạo Sa-ma-tha tức phân biệt hai cỗi gốc: thường trụ và lưu chuyển. Kiến là
thấy, đạo là đường, thấy được đường lối tu hành là bỏ hư vọng mà về
chơn.
Do sáu căn làm
mai mối thấy sáu trần tướng hảo của Đức Phật và nét quyến rũ của nàng
Ma-đăng-già và chính gốc tâm của A-nan là giặc tham ái, khát ngưỡng đưa A-nan
luân chuyển. Chúng ta theo tâm chuyển động phan duyên, thế là đã theo cái tâm
khổ, vui, yêu ghét tạo nghiệp rồi, thành ra mình đi vào cái vòng luân hồi, với
tập khí luân hồi đó. Đây là mở đầu cho Kinh Thủ Lăng Nghiêm và cũng mở đầu cho
cuốn sách “Luân hồi trong lăng kính Lăng nghiêm” này vậy.
Đức Phật khen
A-nan nói đúng đấy nhưng đó chỉ là nguyên do nông cạn. Nông cạn là lấy tâm yêu
thích làm tâm của mình, chứ gốc chính yếu là nguyên nhân sâu xa thì A-nan và tất
cả chúng ta đều không biết được. Nguyên nhân sâu xa tức là cỗi gốc thứ hai, là
hết thảy chúng sanh sống chết từ vô thủy, chết sống nối tiếp, chính bởi vì không
biết chân tâm mình bản lai vẫn thường trụ, tịch tịnh bồ đề niết bàn từ vô thủy.
Bởi vì không biết đến chân tâm này, nên nhiều đời và cả đời này chúng ta không
có sống với nó.
Vọng là vọng
tưởng, là cái hư vọng không có, là tư tưởng phù hư, chợt nổi lên rồi chợt tan,
chợt giận chợt mừng, chợt yêu chợt ghét. Chúng ta sống với những vọng này nên cả
ngày bị tham, sân, si làm chủ. Chúng ta mất quyền chủ nhân, bị vọng tưởng sai
xử, sống với vọng tâm, trong khi chính mình bản chất lại thường trụ, thường định
và thường hằng. Thế nên, chúng ta oan uổng mà chịu khổ, chịu phận đoạn sanh
tử.
Đức Phật giáng
sanh chỉ cho chúng ta cái căn bản trở về, sống với tánh Phật, không để vọng
tưởng chi phối, chỉ huy. Cứ mỗi lần căn gặp trần là tâm mình chuyển động. Mỗi
lần ngay lúc căn gặp trần, ngay lúc sáu căn mở cửa, chúng ta phải hộ sáu căn, đề
phòng vì nó là gốc để sai xử mình chuyển động.
Trong tranh
luân hồi minh họa tâm phan duyên như con khỉ chuyền cành[2] , lăng xăng vơ hết
cành này đến cây nọ, từ sáng đến chiều chúng ta sống vịn sáu trần. Vừa suy nghĩ
giải quyết việc này xong, lại vịn bám sang việc khác không dừng nghỉ. Chúng ta
có hàng chục, hàng trăm cái tâm để vịn, để níu. Nương tựa và bám víu vào một cái
gì đó bên ngoài là thói quen thành nghiệp.
Chúng ta bị
say suyển bởi những cái ảo nơi thần kinh của con ngươi.
Chúng ta bị
điên đảo bởi những cái ảo nơi thần kinh của con mắt.
Chúng ta bị
ngả nghiêng, khó chịu, khóc cười bởi cái ảo nơi thần kinh gá vào xác thân da
thịt này. Đây là phần liễu biệt quán chiếu Sa-ma-tha.
Có bao giờ
mình chịu nhìn lại cuộc đời mình, không gì ngoài những phan duyên đó. Chịu dùng
đèn pin trí tuệ soi lại thì sẽ thấy, sẽ sáng. Thiện ác từ đâu ra, ở ngay tâm
phan duyên. Nó đang bày ra địa ngục, ngạ quỷ và cảnh người đây. Hễ còn trong gốc
luân hồi này thì còn làm con chó, con mèo, con gà, con người, còn hoá thân vào
địa ngục, cõi trời thì đều không bảo đãm giải thoát.
Chúng ta có
chịu nhận tâm phan duyên đó là vọng chưa? Biết nó là hư vọng thì mình bắt đầu
sáng rồi, thì chúng ta bắt đầu có sự chuyển hoá, thay đổi. Đây là nhân cát thì
không thể nào nấu thành cơm mà chỉ thành cát nóng luân hồi thôi. Cơm là mong
thành Phật, trở về tánh viên đại định Thủ Lăng Nghiêm thì phải dùng thức tinh để
biết đúng sự thật. Lấy cát là lấy thức tâm phan duyên vào đất, nước, gió, lửa vô
thường thì sao thường hằng được. Dùng nhân hư vọng là cát thì ngàn vạn năm chỉ
là cát nóng. Văn kinh đã nói do không biết hai chữ cỗi gốc, tu tập sai
lầm, cũng như nấu cát mà muốn thành cơm, dầu trải qua nhiều kiếp như vi trần,
rốt cuộc vẫn không thể thành được.
Cơm là bản thể
thanh tịnh của bồ đề niết bàn. Thể tánh thanh tịnh nơi chúng sanh gọi là Như Lai
tạng vì có hai ý: một là tinh túy và hai là còn buộc vào đồng và biệt nghiệp.
Thân này, con mắt này, cái tay này có tan đi, có vào nhà quàn, nhà thiêu
(funeral home) nhưng thể tánh không tan, thường trụ bất biến, không bị bỏ vào
quan tài, nó độc lập, nó không bận gì đến cái thân. Đây là nhân gạo, gạo ngon
nấu sẽ thành cơm thơm vậy.
NƯƠNG
CÁI THẤY GẠN HỎI CÁI TÂM
Phật
bảo: A-nan nay thầy muốn biết đường tu Samatha ra khỏi sống chết, tôi lại hỏi
thêm.
Liền
đó Đức Phật giơ cánh tay kim sắc, co năm ngón tay, bảo A-nan: A-nan có thấy
không?
A-nan
bạch Phật: Thấy.
Phật
bảo: Thấy cái gì?
A-nan
bạch: Con thấy Như Lai giơ cánh tay, co ngón tay thành nắm tay sáng ngời, chói
tâm và con mắt của con.
Phật
bảo: “Thầy đem cái gì mà thấy?”
A- nan
bạch: “Con cùng đại chúng đều đem con mắt mà
thấy”.
Đức
Phật bảo A-nan: “Thầy trả lời tôi rằng Như-lai co ngón tay làm thành nắm tay
sáng ngời, chói tâm và con mắt của A-nan; con mắt A-nan thì thấy được, còn A-nan
lấy gì làm tâm để đối lại với cái nắm tay chói sáng của
tôi?”
A-nan
bạch: “Như Lai hiện nay hỏi tâm ở chỗ nào, con thì dùng tâm suy nghĩ tìm xét:
tức cái biết nghĩ ấy, con lấy nó làm tâm.”
CHỈ
CÁI BIẾT SUY XÉT CÓ THỂ TÍNH
Phật
bảo: “Sai rồi A-nan, cái ấy không phải là tâm của
thầy”
A-nan
giựt mình, rời chỗ ngồi, chắp tay đứng dậy bạch Phật: “Cái ấy không phải là tâm
con thì gọi là cái gì?”
Phật
bảo A-nan: “Cái ấy là cái tưởng tượng những tướng giả dối tiền trần, nó làm mê
lầm chân tính của A-nan. Do từ vô thủy cho đến đời nay, A-nan nhận tên giặc ấy
làm con, bỏ mất tánh bản lai thường trụ nên phải chịu luân
hồi”.
A-nan
bạch Phật: “Thưa Thế Tôn! Con là em yêu của Phật, vì tâm yêu Phật nên con xuất
gia. Tâm con chẳng những cúng dường Đức Như-lai, mà còn trải qua hằng sa quốc
độ, thừa sự chư Phật và các vị thiện tri thức; phát lòng đại dõng mãnh, làm tất
cả những pháp sự khó làm, là đều dùng cái tâm ấy. Dẫu cho hủy báng Phật pháp,
rời bỏ hẳn thiện căn, cũng nhân cái tâm ấy. Nay Phật phát minh cái ấy không phải
là tâm thì con thành không có tâm như cây như đất, vì ngoài cái hay biết ấy ra
con lại không còn gì nữa. Sao đức Như lai lại bảo cái ấy không phải là tâm? Con
thật kinh sợ và cả trong đại chúng này không ai là không nghi hoặc, xin Phật rủ
lòng từ bi, chỉ dạy cho những chỗ chưa giác ngộ”[3]
.
A-nan và đại
chúng hết sức kinh hãi khi nghe Phật nói: những phát tâm làm Phật sự cúng dường,
những thiện tâm phụng sự thiện tri thức cũng không phải là thật mà chỉ là tâm
phan duyên.
Tôn giả A-nan
thị hiện đúng tâm lý của tất cả chúng ta. Ngài đã vì chúng ta hỏi những câu hỏi
và để Phật trả lời cho chúng ta rõ cái mê, cái ngộ nhận của mình. Từ hồi đó tới
giờ chúng ta cho là tâm tôi, tôi thích, tôi phiền, tôi nhọc, tâm tôi nằm trong
ấy, tôi ngồi thiền, tôi gởi email, tôi điện thoại, tôi lái xe, tôi thuyết pháp,
tôi đi học, làm thơ, viết sách... đều là tôi cả, mà bây giờ Phật nói nó không
phải là tôi, vậy tôi là cái gì đây? Chúng ta quen nương tựa và bám vào cái này,
cái kia để nhận làm mình.
Khi
bấy giờ, Đức Thế tôn chỉ dạy A-nan và cả đại chúng, khiến cho tâm được vô sanh
pháp nhẫn, nơi sư tử tọa, xoa đầu A-nan và bảo A-nan rằng: Như-lai thường nói:
Các pháp phát sanh đều duy tâm biến hiện, tất cả nhân quả, thế giới, vi trần,
đều nhân cái tâm thành có thể tánh. A-nan như trong các thế giới, hết thảy sự
vật hiện có, cả đến ngọn cỏ, lá cây, sợi dây, thắt nút, gạn xét cội gốc, đều có
thể tánh, dầu cho hư không cũng có tên, có tướng, huống chi cái tâm sáng suốt
thanh tịnh nhiệm mầu, làm cho hết thảy sự vật có thể tính mà tự mình lại không
có thể tính.
Nếu
thầy quyết chấp cái tính hay biết suy xét phân biệt là tâm của thầy thì cái tâm
ấy phải rời sự nghiệp các trần: sắc, thanh, hương, vị, xúc riêng có toàn tính;
chứ như hiện nay A-nan vâng nghe pháp âm của tôi, đó là nhân cái tiếng mà có
phân biệt: dầu cho diệt hết tất cả cái thấy, nghe, hay biết, bên trong nắm giữ
cái u nhàn, không biết, không nghĩ thì đó cũng còn là sự phân biệt bóng dáng
pháp trần mà thôi.
Chẳng
phải tôi bảo thầy chấp cái ấy không phải là tâm, nhưng thầy phải chính nơi tâm,
suy xét chính chắn, nếu rời tiền trần có tính phân biệt, thì đó mới thật là tâm
của thầy. Nếu tánh phân biệt rời tiền trần, không còn tự thể thì nó chỉ là sự
phân biệt bóng dáng tiền trần. Tiền trần không phải thường trụ, khi thay đổi
diệt mất rồi, thì cái tâm nương vào tiền trần ấy cũng giống như lông rùa, sừng
thỏ và pháp thân của A-nan cũng thành như đoạn diệt, còn gì mà tu chứng vô sanh
pháp nhẫn.[4]
Bởi mình cứ
nhận ý thức làm cái tâm hàng ngày, nó phan duyên, nó khởi vọng tưởng, mình cứ
nhận cái ấy làm tâm tánh của mình, cho nên cái bóng này hiện lên, mình bắt lấy;
rồi bóng khác hiện lên, bỏ bóng này vịn bóng khác, bóng này tan đi thì bóng khác
hiện lên. Dù nhắm mắt, bịt tai, bịt cả sáu căn, không cho nó hoạt động,
dầu cho diệt hết tất cả cái thấy, nghe, hay biết, bên trong nắm giữ cái
u nhàn, không biết, không nghĩ thì đó cũng còn là sự phân biệt bóng dáng pháp
trần mà thôi, nghĩa là chúng ta sẽ rơi vào, không sáng thì tối (của
mắt), không động thì tĩnh (của tai), không hợp thì ly (của mũi), không vị thì
nhạt (của vị), không xúc thì ly xúc (của thân), không sanh thì diệt (của ý), tức
chúng ta bỏ sắc, bỏ động, bỏ hợp, bỏ vị, xúc, sanh của sáu trần thì tâm lại bám
vào mặt khác của sáu trần là tối, tĩnh, ly, nhạt, không xúc, diệt thì cũng đều
là phan duyên. Nếu bịt sáu căn lại thì vẫn hiện ra cảnh u nhàn, chung quy cũng
là ý thức phân biệt cảnh bên ngoài, là tưởng tượng những tướng giả dối của tiền
trần, chứ không phải là tâm tánh của mình.
Bỏ bóng này
bắt bóng khác, chúng ta không nắm được chân tâm chân thật mà vẫn sống với vọng
tâm, chung quy vẫn là cảnh, không phải là tâm tánh của mình. Chúng ta phải nhận
dứt khoát căn bản bồ đề là tánh thấy, tánh nghe, hay, biết là tông chỉ của Thủ
Lăng nghiêm. Còn các định của sơ thiền, nhị thiền, tam thiền, tứ thiền để sanh
về cõi trời sắc giới; hay các định của tứ không, không vô biên xứ, thức vô biên
xứ, vô sở hữu xứ và phi tưởng phi phi tưởng xứ được sanh về cõi trời vô sắc giới
được sống ngàn vạn tuổi thì cũng hết và cũng tái sanh luân hồi. Đây vẫn là một
dạng của thức thực. [5] Thức thực là thức thứ tám nối nhau giữ căn thân khiến
chẳng rã hoại.
Bốn thánh sáu
phàm đều có thức thực, chỉ có khác là mê và ngộ. Thánh nhân thì thức tánh đã
giác ngộ viên mãn, vốn sẵn trong sáng, gọi là Như lai tạng thức, vì nó duy trì
tất cả công đức có tánh vô lậu: phi có, phi không, phi trụ, phi chẳng trụ. Đây
là cách ăn bằng cách vốn có công đức chẳng thể nghĩ bàn mà làm sanh
trụ.
Đức
Phật bảo đại chúng: làm sao hiện nay các vị cứ lấy động làm thân, lấy động làm
cảnh, từ đầu đến cuối niệm niệm sanh diệt, bỏ mất chân tính, làm việc trái
ngược. Tâm tánh mất chỗ chân thật, nhận vật làm mình, xoay vần trong ấy, tự nhận
cái trôi lăn trong lục đạo.[6]
Nhận sáu căn,
sáu trần và sáu thức làm mình. Lấy tư hoặc làm tâm, lấy kiến hoặc làm cảnh, lấy
đất, nước, gió, lửa làm thân. Chúng ta xây dựng đời sống của mình trên những
biến đổi như vậy có chắc không? sống với biến hoá vô thường thì làm sao bình an.
Sống cứ lấy động làm thân, lấy động làm cảnh thì làm sao thường hằng, thường
định, thế nên tâm tánh mất chỗ chân thật mà tự nhận cái trôi lăn trong lục đạo
làm mình.
10
KIẾN TINH
Phần tiếp theo
là Đức Phật nói về 10 kiến tinh như kiến tinh bất động, kiến tinh vô sanh, bất
diệt, chân ngã, tùy duyên bất biến, bất nhị, siêu tình...Kiến tinh là phần tinh
túy của cái thấy nghe hay biết, chứ không phải là phần phân biệt nhãn thức hay
nhĩ thức...
Nếu mình y cứ
vào được cái thường trụ chân thật tức mình nắm được cái thật thể của nó rồi thì
mới phát huy công dụng gọi là nhập tri kiến Phật và hiển hiện diệu dụng ngàn mắt
ngàn tay, phải chân thật nhận ra mới biết kinh Thủ Lăng Nghiêm có giá trị. Còn
giờ theo những công dụng chánh, tà, thiện, ác là tâm chuyển động theo mê. Chính
mình đang sống với vọng thân, vọng tâm và vọng cảnh, chúng ta quen thuộc với nó
nên nói là nhận ra ngay sáu thức, còn những kiến tinh này chúng ta không hề biết
đến. Những kiến tinh này đối với chúng ta vẫn là chuyện trên mây và vẫn là cái
không nắm được.
Tánh Phật hay
kiến tinh này lìa trần không mất, đối trần không mê, trong khi tâm phan duyên
đối trần thì sanh và không có trần thì không sanh, chúng ta chỉ đang nắm giữ
bóng dáng chứ chưa thấy được chỗ này.
Con mắt, lỗ
mũi, cái tai, thân thể và bộ óc là cái mới có. Do ăn cơm uống nước, thở không
khí, nhận ánh sáng mặt trời mà tạo thành, chứ tánh thấy nghe hay biết thì ở
khắp, khi chưa có thân này hay thân này tan đi thì tánh thấy vẫn ở khắp pháp
giới, vẫn thường trụ bất động khắp 10 phương.
Nếu có duyên
tái sanh thân con người, con vật ở Việt nam thì có cái thấy, có kiến tinh ở Việt
nam. Nếu ở Hoa kỳ thì có cái thấy, có kiến tinh ở Hoa kỳ. Đức Phật và chư Phật
10 phương không có con mắt nghiệp báo như chúng ta nên ngài thấy khắp, tụ ở một
chỗ mà cũng không tụ một chỗ tuỳ duyên hoá độ.
Kiến tinh đầu
tiên của 10 kiến tinh là kiến tinh thường trụ. Cuộc pháp đàm giữa Đức Phật và
vua Ba Tư Nặc đã chỉ ra cho A-nan và đại chúng thấy đặc tánh kiến tinh thường
trụ tức tánh thấy không sinh không diệt như sau:
Khi
bấy giờ, A-nan cùng cả đại chúng nghe lời Phật dạy, thân tâm thư thái, nghĩ mình
từ vô thủy đến nay, bỏ mất bản tâm, lầm nhận sự phân biệt bóng dáng tiền trần
làm tâm, ngày nay được khai ngộ, như em bé mất sữa bỗng gặp mẹ hiền, chấp tay lễ
Phật. xin đức Như lai, ở nơi thân tâm, chỉ ra chỗ chân chỗ vọng, chỗ hư chỗ
thật, ở nơi hiện tiền, phát minh ra hai tính sinh diệt và không sinh
diệt.
Khi
ấy, vua Ba-tư-nặc đứng dậy bạch Phật: “Trước con chưa được vâng nghe lời Phật
dạy bảo, con thấy bọn Ca-chiên-diên, Tỳ-la-chi tử đều nói thân này chết rồi là
mất hẳn và gọi đó là Niết bàn. Nay tuy được gặp Phật nhưng con vẫn còn hồ nghi,
xin Phật chỉ rõ thế nào chứng biết được tánh không sanh diệt nơi tâm này. Hiện
nay các hàng hữu lậu trong đại chúng cũng đều trông mong được nghe điều
ấy.”
Đức
Phật bảo: “Đại vương, thân bệ hạ hiện đó, nay tôi hỏi: cái nhục thân đó của vua
có như kim cang thường còn, không hư hỏng hay lại cũng biến đổi và tan
rã?”
Bạch
Thế tôn, thân con hiện nay rốt cuộc về sau cũng thay đổi và tiêu
diệt.
Phật
bảo: Đại vương chưa hề bị diệt, làm sao lại biết được là phải
diệt?
Bạch
Thế tôn, cái thân vô thường thay đổi của con đây, tuy chưa hề bị diệt, song con
xét nó hiện nay niệm niệm dời đổi, mãi mãi không thôi như lửa thành tro, lần lần
tiêu mất; vì tiêu mất, mãi mãi không dừng nên tôi biết chắc thân này rồi phải
diệt mất.
Phật
dạy: đúng thế, tuổi tác của Đại vương nay đã già yếu, vậy mặt mày của Đại vương
so với lúc còn bé thì như thế
nào?
Bạch
Đức Thế tôn, lúc con bé nhỏ, da thịt mởn mơ, đến khi trưởng thành, huyết khí
sung túc; nay thì tuổi già, ngày thêm suy yếu, hình sắc khô gầy, tinh thần lẫn
lộn, tóc bạc mặt nhăn, chừng sống không được bao lâu nữa, so sánh sao được với
lúc đương còn trẻ mạnh.
Phật
bảo: Đại vương, hình dung của Đại vương, nào phải đương trẻ mà già liền
đâu.
Vua
bạch: Thưa Thế tôn, sự biến hoá thầm thầm dời đổi, con thật không hay nắng mưa
thắm thoát, lần đến thế này. Vì sao? Khi 20 tuổi, tuy gọi là trẻ nhưng mặt mày
của con đã già hơn khi 10 tuổi, khi 30 tuổi lại sút hơn lúc 20 tuổi và đến nay
đã 60 lại thêm hai tuổi, trông lại lúc 50 tuổi, còn khoẻ mạnh hơn
nhiều.
Bạch
đức Thế tôn, con thấy thầm thầm dời đổi như thế. Thân này đến nay tuy đã suy
yếu, nhưng trong sự thay đổi, còn chia từng 10 năm. Nếu con suy xét chín chắn
hơn nữa thì cái biến đổi ấy đâu phải từng một kỷ, thật là mỗi năm mỗi thay đổi;
lại đâu mỗi năm mỗi thay đổi mà cũng là mỗi tháng mỗi biến hoá; lại không những
mỗi tháng mỗi biến hoá mà còn mỗi ngày mỗi thay đổi, xét cho cùng, nghĩ cho kỹ,
trong mỗi sát na, trong mỗi niệm, nó không thể đứng yên, vậy nên con biết thân
con rốt cuộc phải biến đổi và tiêu
diệt.
Phật
bảo: Đại vương thấy biến hoá dời đổi không ngừng, ngộ biết là phải diệt. Vậy
trong lúc diệt đó, Đại vương có biết trong thân có cái gì không diệt
chăng?
Vua Ba
tư nặc chấp tay bạch Phật: Thật con không
biết!
Phật
bảo: Nay tôi chỉ cho Đại vương cái tính không sinh diệt. Đại vương, khi mấy
tuổi, mới thấy nước sông Hằng?
Vua
bạch: Khi con ba tuổi, mẹ con dắt con đi yết lễ thần Kỳ bà thiên thì đã đi qua
sông ấy, lúc đó con liền biết là nước sông
Hằng.
Phật
bảo: Đại vương như lời nói đó: lúc 20 tuổi thì sút hơn lúc lên 10, cho đến nay
đã 60 tuổi, từng năm, từng tháng, từng ngày, từng giờ dời đổi mãi mãi. Vậy khi
Đại vương 3 tuổi thấy nước sông ấy, rồi đến khi 13 tuổi thì nước ấy thế
nào?
Vua
bạch: Con thấy nước ấy cũng giống khi 3 tuổi như nhau không khác và cho đến nay
tuổi đã 62 cũng vẫn không khác.
Phật
bảo: Nay Đại vương xét mình đầu bạc mặt nhăn, mặt Đại vương chắc là nhăn hơn lúc
trẻ. Vậy cái thấy hiện nay của Đại vương thấy sông Hằng so với cái thấy lúc nhỏ
thấy sông Hằng có già trẻ gì
không?
Vua
bạch: Thưa Thế tôn, không.
Phật
bảo: Đại vương, mặt Đại vương tuy nhăn, nhưng cái thấy đó chưa hề bị nhăn. Cái
bị nhăn thì thay đổi, còn cái không bị nhăn thì không có thay đổi. Cái thay đổi
thì phải diệt, còn cái không thay đổi kia, vốn không sinh diệt, làm sao trong ấy
lại nhận cái sống cái chết của Đại vương, mà Đại vương còn dẫn những thuyết của
bọn Mạt già lê kia bảo rằng thân này chết rồi diệt
hẳn.
Vua
nghe lời Phật dạy như vậy, tin biết về sau bỏ thân này qua thân khác cùng với
đại chúng nhảy nhót vui mừng, được cái chưa từng có[7]
.
Khi Phật hỏi
vua Ba-tư-nặc có biết cái gì không sinh diệt trong thân này không? Vua trả lời
thật rằng con chẳng biết, con cứ nghĩ rằng chết là hết, cho nên không thiết gì
những chuyện tương lai xảy ra. Nhiều người cũng nghĩ chết là hết nên chẳng màng
gì đến đạo đức lương tri, chỉ cần thọ hưởng vui sướng trên đời khi còn sống là
đủ. Do tri kiến này mà nhiều việc ác xảy ra.
Nay được Phật
chỉ ra rõ ràng qua ví dụ tánh thấy sông Hằng lúc 3 tuổi với bây giờ thấy lúc 63
tuổi không có khác nhau, cái tánh thấy không khác nhau đó là tánh thấy thật của
mình không sanh không diệt. Thân này là đất, nước, gió, lửa sẽ tan đi, nhưng
tánh thấy thì còn mãi với ta thường trụ. Vua và đại chúng mừng được điều chưa
từng có vì biết rằng mình vẫn còn hoài, không phải chết là
hết.
Học kỹ kinh
Thủ Lăng nghiêm rồi từ đó nhận vào thân mình, sống với tánh thấy nghe, thường
trụ bất động tức đại định Thủ Lăng nghiêm.
Vì tánh chúng
ta quen bám víu, bám víu vào thân mà thân này sẽ tan, giờ được Phật chỉ có cái
thường hằng như có chỗ để chúng ta nương tựa bám lấy làm mình nên vua quan và
quần chúng vui vô cùng và nhảy nhót hò hét như trẻ nít được cho món quà
lớn.
CHỈ
CHỖ TRÁI NGƯỢC
A-nan
liền từ chỗ ngồi đứng dậy, lễ Phật chấp tay, quỳ xuống bạch Phật: “Thưa Thế Tôn,
nếu cái thấy nghe đó thật không sanh diệt thì làm sao Đức Thế Tôn lại gọi chúng
con bỏ mất chân tánh, làm việc trái ngược? Xin Phật mở lòng từ bi, rửa sạch trần
cấu cho chúng con”.
Khi ấy
Đức Như lai ruỗi cánh tay kim sắc, ngón tay chỉ xuống, bảo A-nan rằng: “Thầy nay
thấy tay Mẫu đà-la của tôi là chánh hay là
ngược?”
A-nan
bạch: “Chúng sanh thế gian cho đó là ngược, còn con thì không biết thế nào là
chánh, thế nào là ngược.”
Phật
bảo A-nan: “Nếu người thế gian cho đó là ngược, thì người thế gian gọi thế nào
là chánh?”
A nan
bạch Phật: “Đức Như lai đưa cánh tay lên, tay Đâu-la-miên chỉ lên trên không thì
gọi là chánh.”
Phật
liền giơ cánh tay lên và bảo A-nan rằng: “Cái trái ngược như thế chỉ là đầu đuôi
thay đổi lẫn nhau, các người thế gian lấp đi lấp lại mà xem thấy. Nay lấy cái
thân A-nan và pháp thân thanh tịnh của chư Như lai, so theo đó mà phát minh, thì
thân của Như lai gọi là chánh biến tri, thân của các vị gọi là tánh trái ngược;
tùy thầy xét kỹ nơi thân thầy và thân Phật, cái gọi là trái ngược đó, do ở chỗ
nào mà gọi là trái ngược?”
Khi ấy
A-nan cùng cả đại chúng chăm chăm ngó Phật, tròng con mắt không lay động, chẳng
biết thân tâm chỗ nào trái ngược. Phật phát lòng từ bi thương xót A-nan và đại
chúng phát tiếng hải triều, khắp bảo trong hội: “Các thiện nam tử, tôi thường
nói rằng: sắc, tâm. các duyên và các tâm sở, các pháp sở duyên, đều duy tâm tính
biến hiện. Thân quý vị, tâm quý vị đều là những vật hiện ra trong tâm tính. Làm
sao các vị lại bỏ mất tâm tính quý báu ấy, nhận cái mê trong cái ngộ. Mê muội
thành có hư không, trong hư không mê muội ấy, kết cái mê muội thành ra có sắc,
sắc xen với vọng tưởng, tưởng tướng làm thân, nhóm các duyên lay động bên trong,
giong ruổi theo cảnh vật bên ngoài; rồi lấy cái tướng mờ mịt lăng xăng đó làm
tâm tánh.
Một
phen lầm cái tướng ấy làm tâm thì quyết định lầm cho rằng tâm ở trong sắc thân,
mà không biết sắc thân cho đến núi sông, hư không, đất liền bên ngoài đều là
những vật hiện trong tâm tánh. Ví như bỏ cả trăm nghìn biển lớn trong lặng, chỉ
nhận một cái bọt nước, rồi lại cho nó là toàn hết cả nước, cùng tột các biển
lớn.
Các vị
tức là những người mê lầm nhiều lớp, như cánh tay tôi rũ xuống, không có sai
khác. Như lai gọi là đáng thương xót.” [8]
Đức Phật đưa
tay lên và hỏi thế nào là chánh, thiện, ngay thẳng, thế nào là đảo, ác, không
ngay thẳng? Thông thường chúng ta cho đưa tay lên là chánh, duỗi tay xuống là
đảo. Thật ra tay vẫn là tay, vốn không chánh đảo hay thiện ác. Đưa tay lên là
trời, để tay ngang là cõi người và duỗi tay xuống là địa ngục. Đây là công dụng
của tay. Từ trước tới giờ ta vẫn sống với dụng sai, làm điều trái ngược.
Khi ấy
A-nan cùng cả đại chúng chăm chăm ngó Phật, tròng con mắt không lay động, chẳng
biết thân tâm chỗ nào trái ngược.
A nan cùng cả
đại chúng chăm chăm ngó Phật, tròng con mắt không lay động vì các ngài từ trước
tới giờ thật chưa từng nghe thấy việc này. Ai cũng tôn trọng, kính ngưỡng khen
ngợi các ngài, còn ở đây Phật nói các tôn giả là sai lầm, trái
ngược.
Trái ngược tức
những cái hư vọng cho là thật, là của mình. Còn đây Đức Phật chỉ ra những hiện
diện xung quanh đây như con người, thành phố, tiểu bang, xe cộ đây là những
tướng nghiệp báo mà đã gọi là nghiệp báo là không thật.
Sóng đánh vào
bờ có bọt. Bọt nhiều màu và nhiều dáng. Sóng tan, bọt sẽ tan trong khoảnh khắc,
bọt chợt còn chợt mất nhưng biển vẫn còn. Tâm của mình như biển. Tâm của mình vô
biên bao la mà không nhận, đi nhận một chút vọng, chút bọt chợt còn chợt mất, vì
thế chúng ta bị bế tắc. Tâm của chúng ta đang bị bế tắc, bị đút nút và bịt chặt
trong thân này nên chúng ta chẳng biết cái gì cả mờ mờ mịt mịt, hôn hôn nhiễu
nhiễu, tối tăm bị năm trược bao phủ.
Chúng ta có ba
cái đảo:
1. chúng ta
cho tâm là trong thân này (A-nan trải qua bảy lần tìm tâm không
thấy)
2. không biết
cho thân ở trong thế giới này, cho đến núi sông, hư không, các tướng hữu vi cũng
đều trong chơn tâm, trong tâm mình, nên tâm là hơn cả
3. trở lại cho
thân là tất cả, nên là mê muội.
Mê nhận một
chút tâm phong bế, đút nút và gói kín trong thân này cho là mình nên gọi là đảo
ngược.
|