Source: email RỘNG MỞ TÂM HỒN ĐÓN NHẬN
TẤT CẢ
Ni sư Tenzin Palmo Tại
sao chúng ta luôn chấp trì vào ý nghĩ rằng cuộc sống phải luôn thanh bình, êm ả?
Rất nhiểu người cho rằng chúng ta chỉ có thể thực hành Phật pháp khi không có
bất cứ chướng ngại nào bên ngoài cũng như bên trong, rằng tu tập chân chính chỉ
có thể thực hiện trong những kỳ chuyên tu nhập thất hay chí ít cũng phải đến
chùa, tự viện hay các trung tâm Phật pháp. Trong đời sống thường nhật, bị áp lực
thời gian, bất mãn với hàng loạt gánh nặng gia đình và công việc, mỗi ngày,
chúng ta đều cảm thấy bế tắc, thậm chí tuyệt vọng. Vì tin rằng tu tập nghĩa là
phải có thời gian để chuyên nhất quán tưởng, lễ lạy, thực hiên các nghi lễ cúng
dàng hay tâm linh khác, v.v…, chúng ta càng tin tưởng mình còn thiếu thiện
duyên. Ta vẫn tự nhủ "Làm sao mình có thể trở thành một hành giả chân chính nếu
không có thời gian để thực hành?" Tuy nhiên, đây là một cách hiểu về việc thực
hành Phật pháp hoàn toàn thiếu thực tế, sai lầm .
Chúng ta hãy kiểm nghiệm lại pháp tu
Lục độ Ba La Mật, mang ý nghĩa sáu phương pháp hoàn hảo gồm: bố thí, trì
giới, nhẫn nhục, tinh tiến, thiền định và trí tuệ - tất cả đều cần thiết để
thành tựu Phật quả. Bất kỳ sự thực hành nào trong số sáu phương pháp này đều đòi
hỏi chúng ta phải liên hệ và tương tác với mọi người. Nói cách khác, để có thể
thực hành Lục độ Ba la mật một cách sâu sắc, chúng ta cần những
mâu thuẫn và xung đột trong chính cuộc sống đời thường. Nếu chỉ ngồi yên nơi
tịnh thất và cho rằng mình đang tràn đầy tình yêu thương cùng các phẩm chất tích
cực như vị tha, bao dung, nhẫn nhục thì đó là điều quá dễ dàng bởi ta
chẳng gặp phải bất kỳ thách thức nào. Nhưng khi xả thất, ta gặp gỡ rất nhiều
người trong đời sống thực tế, những người không đối tốt với ta, không làm theo
những điều ta mong muốn, ta sẽ nhìn thấy mình rõ hơn và bắt đầu hiểu thế nào là
thực hành Phật pháp chân chính.
Chúng ta có thể áp dụng hai cách tiếp cận
cơ bản trong quá trình tu tập của mình. Thứ nhất, ta cần học cách sống
tỉnh thức mỗi ngày - đây là điều cốt yếu. Thứ hai là học cách rộng mở tâm
hồn thông qua thực hành Lục độ ba la mật đặc biệt là hạnh bố thí và nhẫn
nhục. Nếu tâm hồn chúng ta khép chặt, dù trì tụng bao nhiêu chân ngôn, thực hiện
bao nhiêu lễ lạy, thụ nhận bao nhiêu quán đỉnh, tầm đọc bao nhiêu kinh sách cũng
đều vô nghĩa. Nếu sự hành trì không giúp ta thay đổi một cách đúng đắn, tích cực
thì điều đó hoàn toàn chẳng có ý nghĩa gì.
Vì
hay đồng hóa bản thân với đủ mọi cảm xúc, tư tưởng, thiên kiến và định
kiến nên chúng ta không còn chỗ cho chính mình để có thể nhìn mọi thứ một cách
chân xác trong mọi hoàn cảnh. Đắm chìm trong "vũng lầy" vô minh ấy, ta thường có
những lựa chọn sai lầm trong hầu hết mọi tình huống. Giống như bị quăng quật,
quay cuồng giữa cơn bão biển, cuộc sống cũng tương tự vậy, chúng ta phải học
cách giữ định tâm giữa những bão tố của đời thường. Cách tốt nhất là tỉnh thức
và rộng mở tâm hồn đón nhận khoảnh khắc hiện tại. Như vậy được gọi là chính
niệm. Bậc Đại thành tựu giả Milarepa từng nói rằng càng trải qua bão tố thăng
trầm của hạnh phúc và khổ đau, càng có cơ hội tu tập và thành tựu giác ngộ trong
cuộc đời.
Chúng ta hãy tìm hiểu về ý nghĩa thực
sự của tỉnh thức. Thông thường, khi chúng ta nghĩ rằng mình đang trong giây
phút hiện tại, thực ra đó là lúc chúng ta đang diễn giải hiện tại, chúng ta suy
tưởng về hiện tại thay vì thực sự ở trong khoảnh khắc thuần túy đó. Chúng ta có
thể tự nhủ "Phải rồi, mình sẽ chính niệm", ta ngồi và nghĩ “Đúng rồi, mình đang
chính niệm đây”. Nhưng như vậy không phải là chính niệm, chẳng qua là chúng ta
đang nghĩ về chính niệm mà thôi. Trong khoảnh khắc chính niệm thực sự, thậm chí
khái niệm về chính niệm cũng không tồn tại. Chính niệm chỉ đơn giản là sự
tỉnh thức trực tiếp, rộng mở. Vì tâm bị che mờ và lớp lớp vọng tưởng nên
hiện tại không thể hiển lộ đối với chúng ta. Chúng ta có thể cho rằng mình luôn
tỉnh thức, thông thái và khôn ngoan nhưng thực ra phần lớn thời gian chúng ta
hành xử như một cái máy. Bấm nút và nhận kết quả. Tâm đầy ắp những suy tưởng về
quá khứ hoặc tương lai, kẹt mắc giữa những vọng tưởng, mơ mộng, những câu chuyện
được thêu dệt, những ý kiến, những bình phẩm và phán xét – như vậy quá khó có
thể buông bỏ những vọng niệm này để chỉ chú tâm vào những gì đang thực sự diễn
ra. Vì thế, chúng ta cần thức tinh chính mình khỏi cơn mê. Khoảnh khắc mà ta đạt
được tỉnh thức - dù cho đó chỉ là một khoảnh khắc ngắn ngủi - ta có thể nhận ra
mình đã mê mờ. Trong trải nghiệm của tâm tỉnh thức rộng mở, mọi thứ đều trở nên
sáng rõ. Mọi thứ đều thay đổi, đều được chuyển hóa. Ta nhận ra rằng không chỉ
bản thân mình mê mờ mà hầu hết những người khác cũng vẫn còn đang vô minh như
vậy.
Đức
Phật, vô cùng thực tế và thiện xảo, đã khai thị bằng vô số giáo pháp theo các
cấp độ vi tế khác nhau nhằm giúp chúng sinh tiếp cận và thâm nhập thực tại.
Ngài bắt đầu với những khai thị về thân - cấp độ thô lậu nhất - bởi thân
là trải nghiệm mà tất cả chúng ta đều dễ dàng nhận thấy. Trong lúc sống với thân
này, phần lớn thời gian chúng ta không ý thức được về nó, chúng ta hoàn toàn
tách biệt với thân. Vì vậy, bước đầu tiên là quay về với hiện tại của thân,
chẳng hạn, khi ngồi ta biết mình đang ngồi; khi đứng ta biết mình đang đứng, khi
đi ta biết mình đang đi; khi nằm ta biết mình nằm. Chỉ đơn giản như vậy. Chúng
ta có thể so sánh việc này như là thức giấc. Nhưng tâm chúng ta chỉ có thể tỉnh
thức trong chốc lát rồi lại tiếp tục mê mờ. Thật lạ lùng là tâm luôn muốn ngủ!
Do vậy, chúng ta cần nhắc nhở mình trở về với hiện tại bởi đó là khoảng thời
gian duy nhất ta thực sự sở hữu. Tất cả những thứ khác đều chỉ là sự phóng chiếu
của tâm.
Cách
khác để rộng mở tâm hồn trong khoảnh khắc hiện tại là dùng hơi thở. Hơi thở là
yều tố liên hệ giữa thân và tâm. Sân hận, sợ hãi, an lạc hay bất kỳ cảm xúc
nào mà ta có đều được thể hiện qua hơi thở.Theo truyền thống Phật giáo, hơi
thở được ví như con tuấn mã trong khi tâm là người kỵ sĩ. Dù cho thông thường,
hít thở là một quá tình tự động, chúng ta hoàn toàn có thể tỉnh thức trong tiến
trình này. Và nếu ta có thể thực sự kết nối với hơi thở, hòa nhập vào trong hơi
thở, không vọng niệm gì về việc hòa nhập hay kết nối này thì như vậy nghĩa là ta
đang thực sự ở trong hiện tại. Bởi hơi thở chính là hiện tại, nó ở ngay đây,
trong chính khoảnh khắc này. Khi bạn bị căng thẳng và stress, cách giải tỏa vô
cùng thiện xảo là điều phục tâm nương theo hơi thở vào ra. Điều này đặc biệt hữu
ích khi ta phải xếp hàng chờ đợi hay đang lái xe. Khi phải dừng trước đèn đỏ, ta
có thể nóng ruột nhưng nếu suy ngẫm rằng "đây chính là cơ hội tuyệt vời để thực
hành", sau đó, ta xoay sự chú ý của mình về hơi thở, tình huống sẽ thay đổi ngay
lập tức. Chúng ta sẽ hoan hỷ với viêc chờ đợi này!
Sự
thực hành tu tập còn có một cấp độ khác đó là tỉnh giác nhận thức tâm của
chính mình. Đây là cấp độ quan trọng nhất đồng thời khó khăn nhất để thực
chứng bởi nó cũng là cấp độ vi tế nhất. Tất cả những Đại thành tựu giả yogi
trong quá khứ đều cho rằng cốt tủy của việc thực hành là luôn quán sát tâm tại
mọi thời điểm. Đây dĩ nhiên là căn bản của việc thực hành tu tập về tâm. Nhưng
thế nào là giữ tâm tỉnh giác, sáng suốt? Ví dụ kinh điển là hình ảnh một người
ngồi bên bờ sông quan sát dòng nước đang chảy trôi. Ví dụ khác nói về một người
chăn cừu khéo léo, thiện xảo chăn dắt bầy cừu của mình.
Thiền định cũng bao gồm cách thức cứng
nhắc và cách thức thiện xảo. Theo cách cứng nhắc, hành giả thiền định bằng cách
cột chặt tâm mình đề giữ cho nó tỉnh thức, khiến tâm không có lối thoát và trở
nên bí bách, căng thẳng. Bạn có thể thấy rằng, khi thiền giả quá gắng sức dồn ép
tâm, hậu quả là họ thường bị xáo trộn các nguồn năng lượng bên trong cơ thể -
người Tây Tạng gọi đó là "loong”. Khi đó, hành giả thường trở nên bực bội, muốn
gào thét. Điều chúng ta cần là tâm thật sự thư giãn, tĩnh tại. Tâm cần trở
nên rộng mở, sắc bén và tỉnh giác. Điều đó hoàn toàn khác với trạng
thái hôn trầm (tức tâm mê mờ, ngủ gật) hay vọng tưởng (tâm lăng xăng, xao động).
Nó cũng không có nghĩa là mọi thứ phải căng thẳng và mọi niệm hiện khởi phải gò
ép theo một thứ tự hình thành nhất định. Một cách vô cùng đơn giản, tâm cần được
rộng mở và sáng rõ.
Thực
tai duy nhất mà ta có được chính là những gì đang diễn ra, ngay tại đây và ngay
lúc này. Nếu ta phóng tâm với những mộng tưởng, ký ức, hy vọng và sợ hãi, chúng
ta sẽ bỏ lỡ mất thực tại này và toàn bộ cuộc sống của ta chẳng khác gì giấc ngủ
của mê mờ triền miên. Chúng ta làm sao có thể biết mình thực sự là ai khi mà
mình không bao giờ ở trong thực tại?
(Drukpa Việt Nam) |