Vạt Nắng Sân Chùa
Neten Rinpoche
Người ta thường cho thày là một vị Tulku, là tiếng để
chỉ cho những vị đã từng tu tập từ đời trước và có nguyện trở lại tái sanh
trong cõi người.
Do sự kính mến, ngoài cái pháp danh của thày là Neten, họ thường kèm
theo chữ "Rinpoche" (có nghĩa là cao quý). Neten có phong tư rất hiền
hòa và từ bi, thày có nhiều Phật tử, và những buổi lễ lớn thày ban thường có
rất nhiều tín chúng tới tham dự.
Năm lên bảy. Một vị sư già đi ngang và quả quyết Neten là một vị Lama đã từng tu
tập nhiều kiếp, nay có nguyện tái sinh trở về cõi người này. Sư còn bảo, trong
tương lai, nếu Neten chọn đi trên con đường đời sẽ là một người rất thành công,
còn nếu đi theo con đường tu hành thì sẽ trở thành một vị đại đạo sư nổi tiếng.
Cha mẹ Neten rất hoan hỷ khi nghe tin này, lập tức họ đưa Neten đến một tu viện
lớn nổi tiếng của người Tây Tạng ở Ấn và xin cho Neten được xuống tóc, quy y.
Neten nhớ rõ lòng mình lúc ấy. Thật bồi hồi, sung sướng và xúc động tới độ
không thể cầm được nước mắt.
Quả nhiên, thày rất thông minh, tựa như người đã từng học qua, nay chỉ ôn lại
mà thôi.Thí dụ như một đoản kinh rất khó nhớ, đối với các vị tu sĩ khác cần
phải một thời gian dài mới có thể lãnh hội được thì đối với Neten, chỉ khoảng
vài ngày thày đã hiểu cặn kẽ và thuộc lòng.
Vị bổn sư của thày rất hài lòng về việc đó, càng quý mến và kỳ vọng ở Neten
nhiều hơn nữa.
Năm mười bốn tuổi, Neten thọ giới tỳ kheo. Năm hai mươi hai tuổi, thày xong
bằng tiến sĩ Phật học (sau khi đã trải qua tất cả những sự thử thách và tranh
luận). Thày được hội kiến với đức Dala Lama nhiều lần. Năm ba mươi tuổi, thày
bắt đầu đi khắp nơi thuyết pháp ... Danh thày nổi như cồn, tín chúng còn gọi
thày bằng một cái tên Lama thân mến...
Dòng đời cứ xuôi chảy...
Một hôm, thày bổn sư muốn ủy nhiệm Neten đến trụ trì một ngôi chùa mới xây ở
tận một tiểu bang xa xôi bên nước Mỹ. Tâm thày dường như không vui. Có lẽ thày
không muốn xa vị bổn sư mình.
Ngoài lý do đó, hình như còn một lý do nào mà thày chưa biết rõ, chỉ thấy tâm
xao động, mà sự sao động đó thày không sao dằn được. Chẳng biết điều lành hay
dữ. Tối đó, thày ngồi nhập định, xem xét tìm hiểu nguyên nhân. Thày chỉ thấy
một đám mây đen lởn vởn trên bầu trời. Nó mờ nhòa, không rõ. Chỉ biết sẽ có
điềm họa sắp đến, mà chẳng biết đó là điềm gì. Định bụng, sáng ra thưa với thày
bổn sư xin được ở lại học tiếp và xin ngài ủy nhiệm một vị khác. Nhưng, ngẫm
nghĩ, nếu đó là nghiệp quả phải trả, thì cũng nên dứt khoát trả hết trong kiếp
này... Vì ý nghĩ đó. Thày quyết định tuân hành bổn sư mình ..
*
Phái đoàn đi đón Neten Rinpoche ngoài phi trường gồm
năm người. Ba nam, hai nữ. Họ đứng thành hàng dọc dâng tấm khăn trắng (một
truyền thống của Tây Tạng khi gặp một vị Lama đạo hạnh). Thày nhận khăn rồi lần
lượt quàng lại lên cổ để ban phước lành cho người dâng khăn. Tới người cuối
cùng là một nữ nhân. Thầy không nhìn rõ mặt, vì nàng dâng tấm khăn lên
ngang mày .
Thày chỉ nhìn thấy đôi bàn tay trắng mịn với những ngón thon dài, nhưng thày
cũng nhận ngay rằng, đây chính là điềm họa cho mình. Thày hơi khựng lại một
thoáng. Nhưng, tâm trở lại bình tĩnh, thày khẽ nhận khăn rồi choàng lại lên cổ
nàng. Lập tức, nàng chắp hai bàn tay vào nhau, khuôn mặt nhìn xuống, lưng hơi
khom lại tỏ một thái độ cung kính. Thấp thoáng, thầy thấy một khuôn mặt son
trẻ, với đôi mắt đen nhánh như mắt con chim câu... Nàng khá đẹp. Nét đẹp dịu
dàng của dân gốc Á. Mái tóc dài, mướt như một dòng suối. Trông nàng có một nét
rất quen thuộc nào đó, nhưng tuyệt nhiên thày không nhận ra được mình đã gặp
nàng ở nơi chốn nào.
Năm người đi đón thày đều là người Việt. Họ vừa líu ríu theo chân thày vừa kể
cho thày nghe những sinh hoạt ở Mỹ. Ông Đoàn, người trong ban chấp hành của
chùa, tường trình ngay:
- Thưa Neten Rinpoche, vì còn một vài trục trặc về
giấy tờ, hiện tại chùa chưa thể xin được để thày có thể thành thường trú dân
tại đây.
Nhưng chúng con xin được visa, thày có thể ở tại Mỹ sáu tháng. Trong
khoảng thời gian này, chúng con sẽ cố gắng xin thẻ xanh cho thày.
Được. Chuyện ở lại còn tùy có đủ nhân duyên không.
Tôi hy vọng trong thời gian ở đâỵ Mọi sự sẽ tốt đẹp...
Con đường từ phi trường về chùa cũng khá xa, mọi người
nói chuyện ríu rít. Nhưng nàng chỉ dõi mắt ra ngoài cửa kính xe, nhìn dòng xe
cộ chảy ngược xuôi, tuyệt nhiên nàng chẳng nói lên lời nào. Hình như nàng cũng
chẳng chú ý gì tới vị thày cho lắm. Ông ta trông còn quá trẻ - nàng nghĩ -
chẳng biết sự tu chứng của ông tới đâu...
Những tuần lễ kế tiếp, Neten Rinpoche ban một loạt những buổi lễ quán đảnh. Tín
chúng đi dự rất đông. Vì người thông dịch từ Anh ngữ sang Việt ngữ đi xa, nên
tình cờ nàng lại được bầu làm thông dịch viên tạm thời trong khi chờ đợi.
Nàng rất sung sướng vì được lựa chọn, đồng thời thật hãnh diện, vì từ hồi
nào tới giờ, nàng chưa bao giờ làm được một việc gì hữu ích cho ai. Nay, tự
dưng nàng lại được đề cử và nhất là được thân cận với một vị đại đạo sư đầy đủ
phẩm hạnh, chẳng ít nhiều gì nàng cũng cảm thấy mình rất quan trọng.
Trong việc thông dịch, thày dành rất nhiều thời gian để giải thích thêm những
danh từ Phật học nàng chưa hiểu rõ, nên nàng thường dành một ít giờ trước buổi
lễ, hay những buổi giảng lên gặp riêng thày, tóm tắt ghi chép những gì thày
muốn giảng. Tuy chưa làm thông dịch viên bao giờ, đôi khi gặp những danh từ
chuyên môn làm nàng lúng túng, nhưng vì có được một kiến thức rất khá về Đại
thừa, và nhờ sự kiên nhẫn của Neten Rinpoche, cộng với lòng mong học hỏi,
trí thông minh, chịu khó của nàng nên cũng hiểu được ít nhiều những gì thày
muốn nói.
Tình thân giữa Thày, trò ngày càng đậm. Khác với ý niệm đầu tiên nàng gặp Neten
Rinpoche tại phi trường. Ngược lại, nàng nhận ra rằng, cái ông thày này thật
đáng nể. Ông có thể đọc suốt được tư tưởng của người đối diện. Hơn thế nữa,
hình như ông có thể nhìn thấy được một vài điều của quá khứ và tương lai. Nhưng
chẳng bao giờ ông nói, các nhóm đệ tử biết được đều do sự tình cờ rồi họ kháo
nhau thêm, từ một thành mười, từ mười thành trăm, tô điểm vị thày mình thêm
huyền hoặc... Nàng bắt đầu tâm phục, khẩu phục vị sư trẻ này. Lối hành xử
của nàng cũng tỏ vẻ tôn kính và yêu mến thày hơn.
Một buổi sáng. Trong sân chùa ngập nắng, thày Neten thấy nàng mặc chiếc áo dài
Á đông bước vào cổng chùa, khuôn mặt rạng rỡ... Nhìn thoáng, thày có cảm tưởng
nàng chính là vạt nắng đầu ngày, thày thấy lòng rung động, bàng hoàng, cảm nhận
pháp giới này không phải một, cũng không phải khác, nó thật chập trùng biến
hiện. Có phải chăng, người thiếu nữ kia đang "biến" thành vạt nắng
hòa nhập với bản thể nhất như của vạn pháp? Thày nghiêng tâm nghe lòng mình
rung động, rồi với sự phản xạ máy móc của nghiệp dư còn đọng lại trong tâm,
thày vội vã bước ra sân "đón" lấy vạt nắng ấy.
Cả hai nhìn nhau. Kỳ diệu thay, thày có cảm giác mình
cũng biến thành ánh nắng chan hòa, hợp với vạt nắng vừa xuất hiện thành nhất
thể như nước hòa với sữa. Trong phút giây mầu nhiệm ấy, ngôn ngữ quả là
"bất khả ngôn thuyết"...
Hình như người nữ cũng cùng trong một tâm trạng ngây
ngất ấy. Nàng thốt lên với một giọng tràn đầy xúc động:
- Thầy…
Nàng loạng choạng muốn té quỵ, thân người mảnh mai như
muốn đổ ập về phía Neten. Bằng một phản xạ tự nhiên, máy móc, thày Neten vội
đưa tay ra đỡ.
Cùng lúc thày cũng đủ tỉnh thức để lùi lại một vài bước, tránh cho toàn
thân nàng dựa hẳn vào mình, giọng thày lấy lại bình tĩnh, hỏi khẽ:
- Đệ tử có sao không?
Thiếu nữ ấp úng:
- Không...không...!!
Bỗng dưng… trong con ... có một niềm cảm động… tới muốn bật khóc...
Vì sự tự trọng, Nàng cũng vội vã lùi lại làm cho
thân mình bị mất thăng bằng, lảo đảo. Hai bàn tay dơ ra gần chạm nhau lại bị
vội vã rụt về. Cả hai đứng nhìn nhau trong suốt chiều sâu của tâm thức. Hốt
nhiên, Neten Rinpoche đọc được trong ánh mắt nàng cả một khung trời vừa sụp đổ,
trong đó cưu mang một nỗi đau đớn tận cùng của của sự thất vọng và yêu
thương...
Sau buổi sáng hôm ấy, phong tư của Neten Rinpoche hình như không có gì thay
đổi. Nhưng nếu để ý kỹ, trong những hành động và cách cư xử - tuy kín đáo
nhưng thày cũng dành cho nàng một sự chăm lo đặc biệt hơn, cùng với lòng bi mẫn
như lúc nào cũng phủ chụp xuống nàng. Thày vẫn gặp nàng trước những giờ thuyết
pháp. Nhưng có lẽ thày tránh không muốn gặp riêng nàng ở bất cứ chỗ nào trong
chùa. Còn riêng nàng, gần như một huyền lực của nghiệp cũ đã chín mùi. Dần dà,
nàng bỗng nhận ra một điều "khủng khiếp", nàng không thể sống thiếu
thày, nàng bỗng thấy mình có một nhu cầu rất cần thiết mỗi ngày là phải
được gặp thày, phải nhìn thày, nghe thày nói, ngắm thày cười, hay chẳng cần làm
gì, chỉ cần phục dưới chân thày nghe thầy lần tràng hạt với những câu chú như
một chuỗi âm thanh dính liền nhau không dứt. Tệ hơn nữa, trong tận cùng sâu
thẳm của tâm thức, nàng khởi tâm muốn "chiếm hữu" thày cho riêng
mình, cảm giác chiếm hữu ấy mạnh tới độ nàng nàng cảm thấy rất khó chịu và ghen
tức khi thấy thày nói chuyện vui vẻ với những người khác. Những lúc như vậy,
tâm nàng thật bồn chồn, không yên và cực kỳ đau khổ. Biết điều đó là xấu, nhưng
nàng thực không thể cưỡng nổi sự ghen tuông.
Một hôm lên chùa sớm, định vào chào thày thì nàng đã thấy có một chị Phật tử
khác đang trong phòng trò chuyện, chẳng biết chị nói chuyện gì mà nàng nghe
tiếng thày cười hòa với tiếng cười ròn rã của chị. Buồn bã, nàng ra ngoài sau
hè ngồi khóc. Khóc chán, nàng lại thò đầu vô xem chị Phật tử nói chuyện xong
chưa. Vẫn thấy chị ngồi thụp dưới chân thày nói cười vui vẻ.
Nàng thấy tim mình quặt thắt lại. Nàng cũng thấy mình thật vô lý khi cứ quẩn
quanh trong một ngõ cụt như thế. Trong lúc này, hình như những giáo lý của Phật
mà nàng học hỏi từ bao lâu, cứ chảy trôi theo dòng nước mắt, chẳng giúp được gì
cho nàng mấy đỗi...
Nhưng nỗi buồn không hẳn mãi mãi sẽ là thế. Nó chính là "mặt bên kia"
của niềm vui. Đôi khi nàng được thày cho tham gia vào công việc của chùa, như
việc tô những bức tượng Phật. Thật lạ, chẳng hiểu những tượng Phật đó ở đâu ra
mà đầy cả bàn. Mỗi bức cao khoảng một tấc, đủ các vị Phật với những thế ngồi
khác nhau. Nàng ngồi xà xuống và hỏi thày với giọng đầy khích
động và ngạc nhiên:
- Ôi chao... Tượng Phật ở đâu nhiều thế. Cho con tô với nhé?
Vị thày ngước nhìn người thiếu nữ đọc được tất cả sự khích động trên đôi mắt
ngây thơ của nàng, thày cười:
- Được! Nhưng chị tô có khéo không? Tô tượng cũng là
một hình thức thiền định và quán tưởng. Lại nữa, có một vài chỗ phải rất cẩn
thận, không được tô lem nhem, nhất là điểm nhãn Phật thì lại càng phải khéo léo
lắm!
Sợ thày đổi ý. Nàng nói ngay:
- Con làm được mà!
Nàng sung sướng vô cùng khi được ngồi bên thày
như thế. Ban đầu thày cho nàng tô những phần dễ, thấy nàng tô khéo, thày cho tô
phần tóc (một chút xíu phần trên trán, nơi đó nếu không khéo sẽ bị lem qua
vương miện trên đầu). Nàng thích nhất ngồi tô thân thể Phật một màu vàng ròng.
Tô lớp đầu không thấy vàng mấy, nhưng nếu kiên nhẫn tô lên từng lớp chồng nhau,
đợi lớp này khô, lại tô thêm lớp mới cho đến khi có một mầu vàng óng đẹp như
một khối vàng thật. Nàng thích tới độ mê mải làm mãi tới gần bảy giờ tối mới
chịu về. Trước khi về, nàng khoe với thày "công trình" mình vừa làm
cả ngày. Một tượng Phật Thích Ca, một tượng của ngài Quán Âm. Cả hai tượng đều
có một màu vàng óng trông rất đẹp mắt...
Niềm hạnh phúc của nàng bị cắt đứt khi người thông dịch viên cũ trở về. Nàng
không còn có cơ hội gần gụi thày nữa. Nàng nhớ thày, sự nhớ nhung kỳ quặc đến
độ nàng cảm thấy hổ thẹn về mặc cảm, nghĩ rằng, mình chính là con ma nữ đến
quấy rối người tu hành. Lòng nàng luôn luôn cảm thấy đau khổ và buồn sầu. Đau
khổ vì biết rằng, tình yêu (nếu có) của mình chính là một tình yêu bệnh hoạn và
mù quáng vì nó đã đặt không đúng chỗ. Buồn sầu khi biết chắc rằng mình đã chẳng
ít nhiều gì cũng đang tạo những nghiệp xấu, ác... Vì sự mặc cảm ấy, nàng thường
có thái độ tránh né và không dám đến gần thầy nữa. Nhưng vì lòng nhung nhớ cứ
dâng đầy, nên chẳng bao giờ nàng bỏ một thời thuyết pháp nào cả .
Một buổi chiều, sự nhớ thương gần như không còn chịu đựng được nữa. Nàng lang
thang xuống phố, mua ba cành hoa Lilly trắng đem lên chùa dâng thày. Cảnh chùa
vắng vẻ, nàng bước vào với nhịp tim đập thình thịch trong lòng ngực. Nàng ôm
chặt ba cành hoa trước ngực như một sự chở che, ngăn cấm mình phạm tội.
Các thày nhỏ chắc đang ở sân sau chùa trồng tỉa, chỉ
còn lại Neten Rinpoche ngồi trong một phòng cạnh chánh điện đang tô các tượng
Phật. Nàng bước vào với một thái độ của một kẻ phạm trọng tội, mặt người nữ tái
xanh, rụt rè và lắp bắp:
- Con đem... dâng thầy mấy... cành hoa... Lilly... trắng...
Neten Rinpoche ngẩng lên, ánh mắt từ bi như thấy suốt được tâm tư nàng,
thong thả đáp:
- Thật là tuyệt diệu. Ta đang đợi chị đến... (Rồi ngắm
nhìn ba đóa hoa trắng nuốt, đôi mắt lung linh, hoan hỷ, thày tiếp). Mấy đóa hoa
mới đẹp làm sao!!. Chị hãy cắm vào bình dâng lên lễ Phật.
Sau quay lại đây, ta muốn cho chị coi cái này...
Thiếu nữ líu ríu làm theo như một mệnh lệnh. Cắm những cành hoa trắng vào bình,
xì xụp lạy trước những tượng Phật đang ngồi trên bệ thờ rất trang nghiêm. Chẳng
hiểu sao lúc đó nàng cảm thấy xúc động lạ kỳ và nước mắt cứ tuôn như
mưa... Nàng phải đợi một lúc cho tâm lắng đọng mới dám bước qua
phòng bên gặp Neten. Thày nhìn nàng chăm chú. Như người đã biết rõ được
vấn đề, nhưng vẫn cứ hỏi:
- Chắc chị đang gặp chuyện... khó khăn?
Chỉ chờ có thế, nàng òa lên, nức nở:
- Dạ phải. Xin thày ban bình an cho con...
Vị thày thở dài. Nhìn người nữ một đỗi rồi nắm
lấy bàn tay lạnh ngắt của nàng dịu dàng bảo:
- Có những điều ta cần phải nên buông bỏ thì sự khổ
đau mới chấm dứt...
Vừa nói đến đó, Neten buông tay nàng, dùng cả hai bàn
tay mình ôm lấy khuôn mặt người nữ, (dưới dạng hình thức ban phép lành), rồi
thày cúi xuống, thấp dần...thấp dần... cho tới khi trán của Neten đụng lên trán
nàng...
Do sự gia trì của vị đạo sư. Mọi sự như được hiển bày trước mắt. Nàng nhìn thấy
rõ trong một kiếp quá khứ nào đó của chính nàng. Hình ảnh người nữ đang đứng
với chiếc áo cánh trắng mong manh. Trên tay cầm ba cành hoa Lilly mầu trắng
nuốt. Sau lưng nàng là một khung cửa chói lòa ánh nắng với vườn hoa muôn sắc.
Đối diện là chồng nàng, họ đang trao nhau những ánh mắt thương yêu. Người nữ
đặt ba cành hoa lên ngực người nam nhìn chàng say đắm nói khẽ qua hơi thở:
- Anh ạ. Em nguyện sẽ đời đời kiếp kiếp được làm vợ
anh và được hạnh phúc như thế này mãi mãi...
Đôi mắt người nữ ngước lên long lanh. Mùi hoa Lilly thơm ngát đâu đây...
*
Vị đạo sư buông tay, rời trán mình khỏi trán nữ nhân.
Nàng xúc động tới độ bật khóc. Nàng nhớ lại tất cả như chuyện mới xảy ra hôm
qua. Tim nàng run run như con chim non bị lạnh. Giọng đạo sư trầm trầm:
- Đã vài đời, vài kiếp, chúng ta từng là vợ chồng và
rất sung sướng, hạnh phúc, đã từng được làm thân người, thân chư thiên, nhẫn
đến có được những thân vi diệu trên từng trời Phạm Thiên và đã từng hưởng tất
cả những sung sướng của cõi nhân gian này... Dẫu vậy, chúng cũng chẳng đem lại
hữu ích gì mấy đỗi. Ngược lại, chúng ta cũng đã từng nhiều đời, nhiều kiếp - do
sự vô minh, tham ái - mà phải chịu mang thân ngạ quỷ, súc sanh, nhẫn đến ở
trong những địa ngục nóng, lạnh để phải chìm nổi trong luân hồi và thọ nhận tất
cả những khổ đau. Nay, cơ may trở lại được thân người, tôi lại được gặp em, dẫu
trong một hoàn cảnh hoàn toàn đổi khác, nhưng đó cũng là cơ may cho chúng ta gỡ
những nghiệp quả từ kiếp trước. Sao em không nhân cơ hội có được thân người
hiếm quý này tu tập cầu giải thoát? Sao cứ phải cam chịu loanh quanh trong luân
hồi tạo thêm ác nghiệp? Hạnh Phúc ư?
Thế nào là Hạnh phúc? Nếu lấy cái Hạnh phúc của trần gian này để làm niềm vui
thì cái niềm vui ấy thật bọt bèo, dễ vỡ...
Vị đạo sư đứng lên. Ông mở tung cánh cửa sổ trông ra vườn. Nắng vẫn còn lung
linh trên những đóa cúc vàng hắt lên những ánh sáng cuối cùng của ngày tàn. Ánh
sáng bên ngoài tràn vào căn phòng bắt đầu tối làm thành một viền sáng quanh
thân ông. Ông quay nhìn người thiếu nữ vẫn còn đầm đìa nước mắt thong thả nói
rõ từng tiếng:
- Phải. Em vẫn còn vướng với tôi một lời nguyện ước.
Thảo nào lần đầu tiên gặp em ở phi trường, tôi đã nhận ra được nét thân quen.
Nhưng thực tâm tôi không muốn đòi, bởi mọi sự đều đã thay đổi.
Tôi đang đi trên con đường tìm kiếm chân Hạnh phúc cho mình và cho người. Trong
tôi, vẫn có tình yêu dành cho em, nhưng tình yêu tôi nay không còn ngừng trên
một đối tượng, mà là trên toàn thể pháp giới...
Từ sau buổi sáng tôi đón em như một "vạt nắng sân
chùa", em luôn luôn hiện hữu trong tôi, là một điểm sáng, một sự thanh
khiết, cao quý nhất. Em đi cả vào trong những buổi cầu nguyện của tôi. Tôi luôn
nguyện em cũng sẽ đạt được chân Hạnh Phúc ấy. Muốn vậy, em nên xả bỏ tất cả. Có
những điều ta cần phải nên buông bỏ thì sự khổ đau mới thực sự chấm dứt...
Thiếu
nữ òa khóc. Nàng nghe trong tim một sự rạn vỡ...
Trong cơn đau đớn tận cùng, nàng cảm nhận được tình yêu rộng lớn của vị
đạo sư dành cho mình. Nàng hiểu rất rõ rằng nàng không còn một một sự chọn lựa
nào khác. Người chồng năm xưa nay đã đổi hướng đi, không còn muốn đi chung với
nàng trên con đường xưa cũ, mà ở đó, Hạnh Phúc hay Đau Khổ đều tùy thuộc vào sự
vô thường, bèo bọt của kiếp người.
Nay, nàng cũng phải thay đổi, nàng phải đi tận cùng nỗi khổ đau để vươn lên, để
có thể trở thành một "giải nắng thênh thang".
Nơi ấy, nàng sẽ gặp chàng ở đó...
CHIÊU
HOÀNG