Thiền Thi Việt Nam
Phí Minh Tâm

Các Thiền Sư Việt Nam đời Lê Lý Trần vào thế kỷ 11 và 12 có để lại nhiều bài kệ dạy đệ tử. Có nhiều bài kệ là những tuyệt tác thơ Đường luật ngũ ngôn, thất ngôn, tứ tuyệt… Tuy nhiên khi đọc các bài kệ, ta cần chú ý đến nội dung giảng dạy Phật Pháp hơn là hình thức thơ. Muốn biết thêm tiêu sử của thiền sư và huyền thoại chung quanh bài kệ, xin xem Trang Nhà Thường Chiếu.
Dưới đây là vài bài kệ được biết đến nhiều nhất đời Lê Lý Trần. Mỗi bài kệ được trình bày với nguyên bản chữ Hán, phiên âm ra Hán Việt, dịch nghĩa và tạm dịch thơ ra Việt ngữ.
Phí Minh Tâm
Đáp Quốc Vương Quốc Tộ Chi Vấn Pháp Thuận Thiền Sư Quốc tộ như đằng lạc Nam thiên lý thái bình Vô vi cư điện các Xứ xứ tức đao binh | 答國王國祚之問 法順禪師 國祚如藤絡 南天裏太平 無為居殿閣 處處息刀兵. |
Dịch Thơ: Vận Nước Vận nước như dây quấn, Trời Nam sống thái bình. Triều đình nhuần đạo đức, Chốn chốn dứt đao binh Dịch Nghĩa: Trả Lời Vua Về Vận Nước Vận nước đan xen với nhau như dây quấn Đất trời Nam đang hưởng thái bình Triều đình thấm nhuần đạo đức vô vi Nơi nơi sẽ không còn chiến tranh. Nation’s Destiny The nation’s destiny is intertwined like ropes The Southern Land enjoys peace If the Palace cultivates no attachment wisdom No more conflicts and strife anywhere. |
Nguyên Hỏa Khuông Việt Thiền Sư Mộc trung nguyên hữu hỏa Hữu hỏa, hỏa hoàn sanh Nhược vị mộc vô hỏa Toàn toại hà do manh Root of Fire In wood there must be fire already Since the fire is there, it can re-start If wood doesn’t contain fire How can wood spark when we rub it? | 元火 匡越禪師 木中元有火 元火復還生 若謂木無火 鑽燧何由萌 Dịch Thơ: Gốc Lửa Trong gỗ vốn có lửa, Có lửa, lửa lại sanh. Nếu bảo gỗ không lửa, Cọ xát sao lại thành. |
Thị Chư Thiền Lão Tham Vấn Thiền Chỉ Lý Thái Tông Bát nhã chân vô tông Nhân không ngã diệc không Quá hiện vị lai Phật Pháp tính bản tương đồng | 示諸禪老參問禪旨 李太宗 般若真無宗 人空我亦空 過現未來佛 法性本相同 |
Dịch Thơ: Yếu Chỉ Của Thiền Tông Bát nhã vốn không tông Người không ta cũng không Phật đã, đang, sẽ đến Cùng Pháp tánh tương đồng. Dịch nghĩa: Trả Lời Các Thiền Lão Hỏi Về Yếu Chỉ Của Thiền Tông Trí tuệ bát nhã không thuộc tông phái nào Không phải Người, cũng không phải Ta Các vị Phật của quá khứ, hiện tại và tương lai Vốn cùng chung đồng một Pháp tánh. Response To the Old Masters On the Fundamental Point of Meditation Prajna Wisdom belongs to no school It’s not other’s, nor is it mine All Buddhas of past, present, and future Are of the same equal nature. |
Thị Tật Giác Hải Thiền Sư Xuân lai hoa điệp thiện tri thì Hoa điệp ưng tu cộng ứng kỳ Hoa điệp bổn lai giai thị huyễn Mạc tu hoa điệp ứng tâm trì. | 海禪師春來花蝶善知時 花蝶應須共應期 花蝶本來皆是幻 莫須花蝶向心持 |
Dịch Thơ: Dạy Khi Bị Bệnh Tiết Xuân hoa bướm đã quen Hoa khoe sắc thắm bướm men nhụy hồng Cả hoa lẫn bướm ảo không Mặc hoa kệ bướm bận lòng làm chi. Dịch Nghĩa: Dạy Khi Bị Bệnh Xuân sang hoa bướm quen với thời tiết Hoa nở và bướm bay đúng theo thời hạn của chúng Nhưng hoa với bướm vốn dĩ đều hư ảo Chớ nên bận tâm về hoa với bướm. Advices To Disciples When Sick Spring comes, flowers and butterflies are accustomed to the weather Flowers blossom, butterflies fly on a schedule Flowers and butterflies are basically ephemeral Never mind the flowers and butterflies. |
Ngư Nhàn Không Lộ Thiền Sư Vạn lý thanh giang vạn lý thiên Nhất thôn tang giá nhất thôn yên Ngư ông thụy trước vô nhân hoán Quá ngọ tỉnh lai tuyết mãn thuyền. Dịch Thơ: Cái Nhàn Của Ông Lão Chài Vạn dặm sông xanh vạn dặm trời Dâu tằm xóm nhỏ khói hòa hơi Ông chài say ngủ không người gọi Tỉnh giấc quá trưa đầy tuyết rơi. | 倥路禪師萬里清江萬里天 一村桑柘一村煙 漁翁睡著無人喚 過午醒來雪滿船 Sông xanh vạn dặm theo trời Một thôn dâu nhỏ khói hơi phủ đầy Lão chài ngon giấc ngủ say Quá trưa tỉnh dậy thuyền đầy tuyết rơi. |
Dịch Nghĩa: Cái Nhàn Của Ông Lão ChàiSông xanh muôn dặm, trời muôn dặm Một xóm dâu tằm, một xóm khói mây. Ông chài ngủ say tít không ai gọi, Quá trưa tỉnh dậy, tuyết xuống đầy thuyền.Leisure of A Fisherman Ten thousand miles of a green river, ten thousand miles of sky A village of mulberry, a village of smoke The fisherman is in deep sleep and no one to wake him He wakes up past noon, his boat is full with snow. |
Ngôn Hoài Không Lộ Thiền Sư Trạch đắc long xà địa khả cư Dã tình chung nhật lạc vô dư Hữu thì trực thượng cô phong đỉnh (1) Trường khiếu nhất thanh hàn thái hư | 倥路禪師擇得龍蛇地可居 野情終日樂無餘 有時直上孤峰頂 長叫一聲寒太虛 |
Dịch Thơ: Nhớ Lời Hang rắn tổ rồng đất sống an Nặng tình thôn dã vui thanh nhàn Rảnh rang lên tận đỉnh đầu núi Một tiếng huýt dài lạnh thế gian.Dịch Nghĩa: Nhớ Lời Cái đất hang rồng, tổ rắn là thế đất có thể ở được. Chọn được chỗ ấy mà ở, mối tình thôn quê khiến ta vui vẻ suốt ngày. Những lúc vô sự, có thể lên thẳng đỉnh núi. Huýt một hồi sáo, làm lạnh cả bầu trời.Remembering Reflection Finding a place to live in the land of dragons and snakes Love of the wilderness is unending bliss all day long Having time, I head directly to the solitary windswept peak And utter a long cry that chills the great empty space. |
(1) Trung tâm bài thơ là 2 câu cuối. Có một lúc nào đó (hữu thì), khi ta trực nhận chân lý, một chân lý không nằm đâu xa xôi, không nằm trong sách vở, mà nằm ngay trong tâm thức của mỗi con người, trong những mặt bình dị nhất của cuôc sống. Khi ấy lòng ta bỗng thênh thang, ta chạy thẳng lên đầu non quạnh quẽ (cô phong đỉnh), đứng giữa cái vô cùng của trời đất ta thét dài một tiếng thét của kinh nghiệm chứng ngộ, tiếng thét đó lạnh buốt càn khôn. Có người đã coi bài thơ này như là một tiêu biểu cho tinh thần và ý chí Đại Việt thế kỷ thứ XI, một tinh thần và ý chí đang vươn lên bầu trời xa thẳm để xây dựng một nước Đại Việt hùng cường. Đối với Phật giáo thì tiếng hú mà Không Lộ Thiền Sư nói tới trong bài thơ có thể được coi như một đóng góp của Thiền Tông Việt Nam trong các dạng tiếng hú Thiền của Phật giáo.
Hai câu thơ cuối này Không Lộ Thiền Sư viết lại dựa trên một chuyện truyền kỳ về một cao tăng khác. Một hôm Dược Sơn Duy Nghiễm Thiền Sư (751-834)đi chơi trên núi, thấy đêm thanh trăng sáng bèn cười lên một tiếng, tiếng cười của ông vang xa ngoài trăm dặm. Bạn là Lý Cao làm một bài thơ tặng ông. “Ngũ đăng hội nguyên” có bài thơ của Lý Cao tặng Dược Sơn cao tăng với tự đề “Tặng Dược Sơn Cao Tăng Duy Nghiễm“. Bài thơ gồm 2 chi, nhưng hình như ở Việt Nam chỉ chi 2, trong đó có 2 câu thơ được Không Lộ Thiền Sư mượn ý, là được chú trọng đến. Nhưng chính chi 1 mới bao gồm thiền ý được tóm lượt ở câu 4 của chi 1 “Vân tại thanh tiêu thủy tại bình“.
Đáp Lý Thái Tông Tâm Nguyện Chi Vấn Huệ Sinh Thiền Sư Pháp bổn như vô pháp, Phi hữu diệc phi không. Nhược nhân tri thử pháp, Chúng sinh dữ Phật đồng. Tịch tịch Lăng Già nguyệt, Không không độ hải chu Tri không, không giác hữu, Tam muội nhậm thông chu. | 答李太宗心願之問 惠生禪師 法本如無法 非有亦非空 若人知此法 眾生與佛同 寂寂棱伽月 空空渡海舟 知空空覺有 三昧任通週 |
Dịch Thơ: Trả Lời Lý Thái Tông Về Tâm Nguyện Pháp gốc như không pháp, Chẳng có cũng chẳng không. Nếu người biết pháp ấy, Chúng sanh cùng Phật đồng. Trăng Lăng Già vắng lặng, Thuyền Bát Nhã rỗng không. Biết không, không giác có, Chánh định mặc thong dong. HT Thích Thanh Từ Dịch nghĩa: Trả Lời Lý Thái Tông Về Tâm Nguyện Pháp căn bản vốn như không có pháp, Chẳng phải là có, cũng chẳng phải là không có. Nếu hiểu được cái nguyên lý ấy, Thì chúng sinh cũng đồng với Phật. Lặng lẽ như vầng trăng Lăng Già, Thuyền Bát Nhã rỗng không. Biết đúng cái không, cái không hoá ra có, Nhập tam muội, sẽ mặc ý đi thông suốt. Response to Ly Thai Tong on Wishes Basic dharma is like no dharma It does not exist nor does it exist If one understands that dharma He is the same as the Buddha The moon of the Lankavatara is pure The boat of Prajna is empty If one knows emptiness, then emptiness does exist Entering samadhi, one freely travels everywhere. |
Hữu Không Đạo Hạnh Thiền Sư Tác hữu trần sa hữu Vi không nhất thiết không Hữu không như thủy nguyệt Vật trước hữu không không. | 道行禪師作有塵沙有 為空一 空 有空如水月 勿著有空空 |
Dịch Thơ: Có không Nếu có mảy may cũng tất có Nếu không tất cả sẽ là không Có không như tựa trăng trong nước Chớ bám có và chớ bám không.Dịch Nghĩa: Có không Nếu nói “có” thì từ hạt cát, hạt bụi đều có. Cho là “không” thì hết thảy đều là không. “Có” với “không” như ánh trăng dưới nước, Đừng có bám hẳn vào cái “có”, và cũng đừng cho cái “không” là không.Yes (Form) or No (Emptyness) If we say YES, then a speck of dust exists If we say NO, then eveything is NO (empty) YES and NO are like the reflection of the moon in the water Don’t say that it’s there, don’t say that it’s not there. |
Vấn Kiều Trí Huyền* Đạo Hạnh Thiền Sư Cửu hỗn phàm trần vị thức câm Bất tri hà xứ thị chân tâm Nguyện thùy chỉ đích khai phương tiện Liễu kiến như như đoạn khổ tầm. | 問喬智玄 道行禪師 久混凡塵未識金
知何處是真心 願乘 的開方便 了見如如斷苦尋 |
Dịch Thơ: Hỏi Kiều Trí Huyền Thế gian hỗn độn lẫn vàng thau Chẳng biết chân tâm ở chốn nào Phương cách cúi mong bày đích xác Như như hiểu thấy khỏi tầm cầu.Dịch Nghĩa:Hỏi Kiều Trí Huyền Phàm trần hỗn độn chưa biết vàng thiệt Không biết tâm chân thật ở chỗ nào Muốn được chỉ bày đích xác phương cách Trông thấy và hiểu biết sự thật để chấm dứt khỗ tâm tìm kiếm. Asking Meditation Master Tri Huyen In this confusing world, I have yet known real gold Do not know where the true mind reside Hope you will show clearly the means To see and understand the truth to end my painful search. |
*Thiền Uyển Tập Anh viết “…Sư (Đạo Hạnh) dạo khắp tùng lâm, hỏi xin ấn chứng. Nghe Kiều Trí Huyền hóa đạo ở Thái bình, sư nhún mình đến tham yết, trình hỏi chân tâm bằng bài kệ trên. Trí Huyền đáp lại bằng bài kệ dưới đây. Sư mù mịt không hiểu, mới đến hỏi Thiền Sư Sùng Phạm chùa Pháp Vân: “Thế nào là chân tâm?” Phạm hỏi lại: “Cái gì chẳng phải là chân tâm?” Sư tỉnh ngộ, nói: “Làm thế nào bảo đảm?” Phạm đáp” “Đói ăn khát uống”.
Đáp Từ Đạo Hạnh Chân Tâm Chi Vấn Trí Huyền Thiền Sư Ngọc lý bí thanh diễn diệu âm Cá trung mãn mục lộ thiền tâm Hà sa cảnh thị Bồ đề cảnh Nghĩ hướng Bồ đề cách vạn tầm. | 智玄禪師玉裏秘聲演妙音 個中滿目露禪心 河沙境是菩提道 擬向菩提隔萬尋 |
Dịch thơ: Chân Tâm Tiếng ngọc ẩn thưa lý nhiệm mầu Ý thiền tỏ rõ tận tâm thâu Bồ-đề cảnh vật vô song kể Nhưng đến Bồ-đề quả có lâu. Dịch Nghĩa: Trả lời Từ Đạo Hạnh Hỏi Về Chân Tâm Ngọc có chứa ẩn âm thanh huyền diệu Trong đó mắt thấy rõ ý thiền Vô số cảnh vật đều là cảnh Bồ đề Còn nghĩ đến Bồ đề là còn cách xa vạn tầm (tầm=8 thước). Response to Question Of True Mind Jade contains mysterious sounds that produce wonderful echoes Which clearly show the Zen mind. The multitude of lands are all Bodhi Lands. However, if one tries to find it, it would be ten thousands of miles away. |
Thị Tịch Đạo Hạnh Thiền Sư Thu lai bất báo nhạn lai qui Lãnh tiếu nhân gian tạm phát bi Vị báo môn nhân lưu luyến chước Cổ sư kỷ độ tác kim sư. | 道行禪師秋來 報雁來歸 冷笑人間暫發悲 為報門人休戀著 古師幾度作今師 |
Dịch Thơ: Nói Khi Sắp Viên Tịch Thu sang đâu báo nhạn về Nhạt cười nhân thế ê chề đắng cay Thôi đừng lưu luyến bi ai Thầy xưa hóa kiếp thầy nay bao lần.Dịch Nghĩa:Nói Khi Sắp Viên Tịch Mùa thu trở lại, nhưng không báo nhạn sẽ cùng về Đáng cười, người đời buồn bã bi thương Thôi các đệ tử đừng lưu luyến khóc than Thầy đã từng làm thầy những đời về trước, bây giờ mất đi rồi trở lại làm thầy nữa. Farewell Advices to Disciples Autumn does not announce the returm of wide geese Shallow smiles for mankind to show sorrows Disciples! Do not mourn Your old teacher shall come back as your new teacher. |
Lúc thiền sư Đạo Hạnh sắp mất, đồ đệ nhiều người khóc lóc thương tiếc. Ngài bảo họ đại ý rằng: “Người sống thác cũng như thời tiết thay đổi, mùa hè hết thì mùa thu về. Cái lúc mùa thu sắp tới, không bao giờ báo tin cho những con nhạn cùng theo. Ta đây cũng vậy, không thể đem được các ngươi cùng đi. Nhưng ta qua đời chỉ là việc chuyển đổi kiếp này sang kiếp khác, không có gì đáng thương xót.”
Thị Đệ Tử Vạn Hạnh Thiền Sư Thân như điện ảnh hữu hoàn vô Vạn mộc xuân vinh thu hựu khô Nhậm vận thịnh suy vô bố úy Thịnh suy như lộ thảo đầu phô Dich thơ: Bảo Đệ Tử Thân như bóng chớp có rồi không Tươi thắm vào xuân thu não lòng Mặc vận thịnh suy không sợ hãi Như sương trên cỏ mọc bên đồng. | 示弟子 萬行禪師 身如電影有還無 萬木春榮秋又枯 任運盛衰無怖畏 盛衰如露草頭鋪 Thân như chiếc bóng chiều tà Mùa Xuân tươi tốt, thu qua rụng rời Xá chi suy thịnh việc đời Thịnh suy như hạt sương phơi đầu cành. |
Dịch Nghĩa: Bảo Đệ Tử Thân của người đời, cũng như cái bóng chớp, có rồi lại biến thành không. Các thứ cây cối, mùa xuân tươi, thu lại khô. Vận của cõi đời dù có lúc thịnh, lúc suy, nhưng cũng đừng sợ. Thịnh suy chỉ là những việc tạm thời, cũng như giọt sương đọng trên ngọn cỏ vậy. Advice To Disciples Our body is like lightning, it’s there then it’s gone Like vegetation luxuriant in spring and dry in autumn Have no fear contemplating Prosperity and Decline They are momentary like drops of dew hanging on the grass tips. |
Vô Tật Thị Chúng Viên Chiếu Thiền Sư Thân như tường bích dĩ đồi thì Cử thế thông thông thục bất bi Nhược đạt tâm không vô tướng sắc Sắc không ẩn hiện nhậm thôi di. | 無 疾示眾 圓照禪師 身如墻壁已頹時 舉世匆匆孰不悲 若達心空無色相 色空隱現任推移 . |
Dịch Thơ: Khi Không Có Bệnh Bảo Mọi Người Thân như tường vách sắp tan hoang Hấp tấp buồn phiền thở với than Nhận thức tâm kia không sắc tướng Sắc không dời đổi cớ chi màngDịch Nghĩa:Khi Không Có Bệnh Bảo Mọi Người Thân thể người ta như tường vách đến lúc đổ nát, Người đời đều vội vã, ai mà chẳng buồn. Nhưng nếu nhận thức được rằng cái tâm là không sắc Tướng cũng là không, thì “sắc” với “không”, khi ẩn khi hiện, mặc nó đổi dời. Advices When Not Sick Our body is like a brick wall that in time will tumble People are in a hurry, who does not worry If one attains an empty mind without its myriad manifestations Form and emptyness appear and disappear, let them change. |
Cáo Tật Thị Chúng Mãn Giác Thiền Sư* Xuân khứ bách hoa lạc, Xuân đáo bách hoa khai Sự trục nhãn tiền quá (1) Lão tòng đầu thượng lai Mạc vị xuân tàn hoa lạc tận Đình tiền tạc dạ nhất chi mai (2) | 告疾示眾 滿覺禪師 春去百花落 春到百花開 事逐眼前過 老從頭上來 莫謂春殘花落盡 庭前昨夜一枝梅 |
Dịch Thơ: Có Bệnh Bảo Với Mọi Người Xuân đi trăm cánh hoa tàn Xuân về tươi thắm muôn ngàn sắc hoa Sự đời tuần tự diễn ra Trải bao năm tháng tóc đà bạc phơ Xuân tàn đừng tưởng cành trơ Đêm qua mai nở nhởn nhơ trước nhà. Dịch Nghĩa: Có Bệnh Bảo Với Mọi Người Xuân đi trăm hoa rụng Xuân đến trăm hoa nở Trước mắt mọi việc lần lượt qua Cái già đến trên đầu Đừng tưởng xuân tàn hoa rụng hết Đêm qua, một cành mai nở trước sân. Telling Everyone That One Is Sick Spring goes, flowers fall Spring comes, flowers blossom Events come and go before our eyes Old age comes on our head Don’t believe all flowers have fallen when spring is gone Last night in the court yard, an apricot branch has blossomed. |
*Theo Thiền Uyển Tập Anh, Mãn Giác Thiền Sư (1052-1096), là một vị đại sư rất được Lý Nhân Tông kính trọng. Ông làm bài thơ trên khi cáo bệnh về quê lúc cuối đời. Bài thơ nầy còn được biết dưới tên Nhất Chi Mai.
(1) Câu 3 và 4 của bài thơ mượn ý từ bài “Thủy Biên Ngẫu Đề” của La Ẩn.
(2) Câu chót mượn ý từ bài “Tảo Mai” của Thiền Sư Tề Kỷ sống thời Vãn Đường khoảng một thế kỷ trước.
Ký Thanh Phong Am Tăng Đức Sơn Trần Thái Tông* Phong đả tùng quan nguyệt chiếu đình Tâm kỳ phong cảnh cộng thê thanh Cá trung tư vị vô nhân thức Phó dữ sơn tăng lạc đáo minh *Tên Trần Cảnh (1218-1277) | 寄清風庵僧德山 陳太宗 風打松關月照亭 心期風景共凄清 個中滋味無人識 付與山僧樂到明 |
Dịch thơ: Gửi Nhà Sư Đức Sơn Am Thanh Phong Gió thổi qua sân trăng sáng ngời Tâm cùng phong cảnh tịnh nơi nơi Bao nhiêu thú vị không người biết Để sư an lạc đến hừng trời. Dịch nghĩa: Gởi Nhà Sư Đức Sơn Ở Am Thanh Phong Gió đập vào cổng thông, trăng chiếu sáng trên sân Tâm hẹn ước phong cảnh cùng trong sáng thanh tịnh Trong đó có bao nhiêu thú vị riêng tư không người biết Để cho nhà nhà sư trong núi đuợc an lạc đến trời sáng. To The Monk Duc Son At Thanh Phong Temple The wind beats at the pine gate, the moon shines on the yard My heart is one with the landscape, quiet clear and cold In which there are many private blessings, yet nobody knows Leaving the monk in the mountain to enjoy his bliss until dawn. |
Ngẫu Tác Tuệ Trung Thượng Sỹ* Đường trung đoan tọa tịch vô nghiên (ngôn) Nhàn khán Côn Luân nhất lũ yên Tự thị quyện thời tâm tự tức Bất quan nhiếp niệm bất quan thiền. *Tên Trần Tung (1230-1291) | 偶作 慧中上士 堂中端座寂無言 閑看崑崙一縷煙 自是倦時心自息 不關攝念不關禪 |
Dịch thơ: Chợt Hứng Làm Thơ Ngay ngắn giửa nhà, ngồi lặng yên Nhàn nhìn khói núi bốc trên triền Khi thân mỏi mệt, tâm tự nghỉ Chẳng niệm nam mô, chẳng nhập thiền. Dịch nghĩa: Chợt Hứng Làm Thơ Ngồi ngay ngắn giữa nhà, yên lặng không nói năng Nhàn nhã ngắm làn khói bay trên núi Côn Luân Khi nào thấy mệt thi tâm tự nghỉ ngơi Chẳng cần niệm cũng chẳng phải thiền. Sudden Inspiration to Write a Poem Sitting straight and quietly in the middle of the room Leisurely watching the smoke rising on Con Luan Mountain When the body is tired, the mind automatically stops activities. There is no need to recite the Buddha’s name, no need to meditate. |
Độc Đại Tuệ Ngữ Lục Hữu Cảm Trần Thánh Tông* Đả ngoã toàn qui tam thập niên Kỷ hồi hãn xuất vị tham thiền Nhất triêu thức phá nương sinh diện Tỵ khổng nguyên lai một bán biên Nhãn tiền vô sắc nhĩ vô thanh Nhất phiến tâm đầu tự đả thành Thanh sắc bất can thần thiệt ngoại Nhậm tha bác báo dữ đô dinh. *Tên Trần Hoàng(1240 – 1290) | 讀大慧語錄有感 陳聖宗 打瓦鑽龜三十年 幾回汗出為參禪 一朝識破娘生面 鼻孔元來沒半邊 眼前無色耳無聲 一片心頭自打成 聲色不干唇舌外 任他剝報與都丁 |
Dịch thơ: Cảm Xúc Khi Đọc Đại Tuệ Ngữ Lục Tu hành kham khổ ba mươi năm Nhập định thiền na áo ướt dầm Một sớm bổng nhiên nhìn thấy mẹ Mất đi một nửa phần không tâm. Trước mắt sắc không tai không thanh Âm thanh màu sắc do tâm thành Tuyệt nhiên thanh sắc không can dự Mặc chúng phô bày cái sắc danh. Dịch nghĩa Cảm Xúc Khi Đọc Đại Tuệ Ngữ Lục Ba mươi năm dùi rùa đập ngói (1) Mấy lần toát mồ hôi vì tham cứu đạo Thiền Một sớm bỗng thấy hết được khuôn mặt của mẹ (2) Thì ra khuôn mặt ấy chỉ có một nửa. Trước mắt không có màu sắc, bên tai không có âm thanh(3) Cái tâm của mình tự cho là có đấy thôi Thanh và sắc không can dự tới, ở ngoài môi và lưỡi Mặc cho chúng “bác” hay “báo”, “đô” hay “dinh.” Emotion When Reading “The Great Wisdom Record” For thirty years, I drilled the turtle shells and broke tiles (1) to practice the Way Many times I felt into a cold sweat while entering samadhi One morning I suddenly saw the mother’s original face (2) It turns out that the other half of the truth has been lost in my mind. Before the eyes there is no form, by the ears there is no sound (3) Forms and sounds are only made by the mind They have nothing to do beyond the lip and tongue Pay no attention even if they call out and show them to you. |
- To practice the Path, one does easy tasks like breaking tiles and difficult tasks like drill turtle shells.
- Truth, like every thing else, has 2 faces: positive and negative. One often differentiates and see only the face one likes or dislikes.
- These four lines point to the Buddhist doctine of emptyness, which is based on the natural law of interdependence origination. All dharmas: things, living beings, processes…are created by favorable conditions coming together. These conditions continually change and deteriorate. So things are impermanent and, without a nature of their own, have no independent existence and are ultimately empty.
This practice, seeing the mind as impermanent, as an endless series of feelings and sentiations one after another, and seeing all things being interdependent, will lead to the ultimate awareness that there is no self, no permanent identily, only emptiness or buddha nature common to all.
Cư Trần Lạc Đạo Trần Nhân Tông* Cư trần lạc đạo thả tuỳ duyên Cơ tắc xan hề khốn tắc miên Gia trung hữu bảo hưu tầm mịch Đối cảnh vô tâm mạc vấn thiền. *Tên Trần Khâm (1258 – 1308) | 居塵樂道 陳仁宗 居塵樂道且隨緣 饑則飧兮困則眠 家中有宝休尋覓 對鏡無心莫問禪 |
Dịch thơ: Sống Đời Vui Đạo Sống đời vui đạo hãy tùy duyên Khát uống đói ăn mệt ngủ liền Châu báu đầy nhà không cần kiếm Yên tâm trước cảnh hỏi chi thiền. Dịch nghĩa: Sống Đời Vui Đạo Sống giữa trên đời, hãy tuỳ duyên mà vui với đạo Đói thì ăn, mệt thì ngủ Trong nhà sẵn sẳn đầy châu báu, không phải tìm đâu khác Trước cảnh giới mà không để tâm, thì cần chi hỏi về thiền. Live in the World and Practice with Joy Living in the world and practicing the Path with joy, accord with conditions Eat when hungry, sleep when tired You already possess precious jewels, you do not have to look for it elsewhere Facing the world with a mind that is empty, what use is meditation? |
Nhập Tục Luyến Thanh Sơn Pháp Loa Thiền Sư Sơ cấu cùng thu thủy Sàm nham lạc chiếu trung Ngang đầu khan bất tận Lai lộ hựu trùng trùng *(1284 – 1330) | 入俗戀青山 法螺禪師 疏瘦窮秋水 巉礹落照中 昂頭看不盡 來路又重重 |
Dịch thơ: Vào Cõi Tục Nhớ Núi Xanh Nước thu in hình đá Núi bỏng dưới ác tà Ngẩng đầu nhìn vô tận Con đường vời vợi xa. Dịch nghĩa: Vào Cõi Tục Nhớ Núi Xanh Đá khô cằn in bóng xuống đáy nước mùa thu Núi hiểm hóc bơ vơ dưới ánh sáng mặt trời Ngẩng đầu lên nhìn bất tận Con đường đi tới lại càng xa vời vợi. Entering the World Longing for Green Mountain The bare rocks mirror in the autumn water The broken peaks bake in the sunlight Looking up, there is nothing to stop the view And the road ahead appears endless. |
Diên Hựu Tự Huyền Quang Thiền Sư Thượng phương thu dạ nhất chung lan Nguyệt sắc như ba phong thụ đan Si vẫn đảo miên phương kính lãnh Tháp quang song trĩ ngọc tiêm hàn Vạn duyên bất nhiễu thành già tục Bán điểm vô ưu nhãn phóng khoan Tham thấu thị phi bình đẳng tướng Ma cung Phật quốc hảo sinh quan. *(1254 – 1334) | 延祐寺 玄光禪師 上方秋夜一鐘闌 月色如波楓樹丹 鴟吻倒眠方鏡冷 塔光雙峙玉尖寒 萬緣不擾城遮俗 半點無憂眼放寬 參透是非平等相 魔宮佛國好生觀 |
Dịch thơ: Chùa Diên Hựu Đêm thu văng vẳng chuông chùa Sóng trăng phong đỏ phân bua nỗi niềm Cú rồng đáy nước ngủ im Tháp song song lạnh trơ tìm tâm cang Muôn duyên che chở thế gian Không phiền chuyện nhỏ tâm an rộng nhìn Bình đẳng vạn pháp trọng khinh Cung ma đất Phật bóng hình như nhau. Dịch nghĩa Chùa Diên Hựu (1) Đêm thu, tiếng chuông văng vẳng từ phương trên chùa Ánh trăng như sóng bao quanh cây phong lá đỏ Cú mèo (2) nằm ngủ ngược dưới mặt hồ như tấm gương vuông lạnh giá Hai ngọn tháp sáng song song trơ trọi như hai ngón tay ngọc lạnh buốt Muôn vạn nhân duyên không quấy rối là bức thành che chở thế tục Không lo lắng dù nửa điểm nhỏ nên tầm mắt mở rộng Hiểu thấu tướng bình đẳng của vạn pháp thì phải trái đều như nhau (3) Thì xem cung ma cũng giống như đất Phật. Dien Huu Pagoda (1) In the autumn night, the temple bell is calling The moonlight comes down like waves covering the red maple leaves The owl (2) is sound asleep upside down in the chilly pond water, which looks like a square mirror The two bright towers stand parallel unadorned like two icy jade fingers Thousands of unentangled causes and conditions protect the desire world Having no worries about minor points , one’s vision is widened Understanding the equality of all dharmas, there is no right and wrong (3) The ghost palace is the same as the Buddha land. |
(1) Chùa Diên Hựu là Chùa Một Cột, được vua Lý Thái Tông cho dựng năm Kỷ Dậu (1049), nay vẫn còn ở Hà Nội sau nhiều lần trùng tu.
(2) “Si vẫn” là hình những con chim cú hoặc rồng được khắc hoặc đắp nổi lên cột kèo các đình chùa.
(3) Bình đẳng tướng – Tất cả pháp tướng: đời/đạo, vọng/chân, có/không, sanh/diệt, tội/phước, thiện/ác, chánh/tà, ma/Phật, … đều phát sanh từ Chân Như, là biểu hiện của Chân Như, nên được coi là bình đẳng như hai mặt của một đồng tiền.
Tặng An Lãng Tự Phổ Minh Thiền Sư Trần Thì Kiến Ẩn bất lâm tuyền chân đại ẩn Tu ư gia tự tức chân tu Thử nhật tham thiền như mộng giác Hưu tương vãng sự quái Trào Chu. | 贈安朗寺普明禪師 陳時見 隱不林泉真大隱 修於家寺即真修 此日參禪如夢覺 休將往事怪潮州 |
Dịch thơ: Đề Tặng Thiền Sư Phổ Minh Chùa An Lãng Không ở suối rừng tức ẩn thân Tại gia hành đạo mới tu chân Tham thiền thức tỉnh hôm nay ngộ Thứ sử Triều Châu nhận Phật ân. Dịch nghĩa: Đề Tặng Thiền Sư Phổ Minh Chùa An Lãng Ẩn cư mà không ở nơi rừng sâu suối nguồn mới là ẩn thân Tu hành ngay tại chùa trong nhà mới là chân tu Hôm nay được tham vấn Thiền như vừa tỉnh mộng Không đem chuyện cũ mà trách Thứ sử Triều Châu. (1) Dedicated To Chan Master Pho Minh of An Lang Temple To seek refuge not in deep forest and source stream is a Great Refuge To practice the Path in the home temple is the True Practice Awaken from deep samadhi today is like wake up from a dream Do not use an old story blaming the prefect of Trieu Chau.(1) |
(1) Hàn Dũ, thi sỉ đời Đường, vì can vua Đuờng Hiến Tông trong việc cung nghênh xá lợi Phật thoát bị tử hình, nhưng bị giáng chức làm Thứ Sử Triều Châu (Trào Chu) tỉnh Quảng Đông. Khi về già, Hàn Dũ trở về đạo Phật.
Dục Thúy Sơn Trương Hán Siêu Sơn sắc thượng y y Du nhân bất hồ quy? Trung lưu quang tháp ảnh Thượng giới khải nham phi Phù thế như kim biệt Nhàn danh ngộ tạc phi Ngũ Hồ thiên địa khoát Hảo phóng cựu ngư ky. | 浴翠山 張漢超 山色尚依依 遊人胡不歸 中流光塔影 上界塏岩扉 浮世如今別 閒名悟昨非 五湖天地闊 好訪舊漁磯 |
Dịch thơ: Núi Dục Thúy Màu núi y như chẳng đổi thay Người đi cớ sự chưa về đây Giửa dòng ánh sáng lung linh tháp Cổng đá trời cao đã mở bày. Trần thế nổi trôi nay khác biệt Danh hờ biết rõ không gì hay Bao la trời đất Ngũ Hồ rộng Tảng đá ngồi câu khó được ngay. Dịch nghĩa: Núi Dục Thúy Màu núi gần y như cũ không thay đổi Người đi chơi sao chưa thấy về? Giửa dòng ánh sáng có bóng của tháp Người trên mở cổng đá nham Thế gian chìm nỗi khác biệt như ngày nay Mới biết cái danh nhàn chẳng có gì hay ho Vùng Ngũ Hồ trời đất rộng bao la Tìm tảng đá cũ ngồi câu cá. Duc Thuy Mountain The color of the mountain appears unchanged Why has the traveller not returned? A tower stands in the stream of light Haven has opened the stone gate The saha world has changed so much to the presen The idle fame has no meaning The Five Lakes area is open huge space Find the old stone above the water to sit and fish. |
Đề Gia Lâm Tự Trần Quang Triều Tâm khôi oa giác mộng Bộ lý đáo Thiền đường Xuân vãn hoa dung bạc Lâm u thiền vận trường Vũ thu thiên nhất bích Trì tịnh nguyệt phân lương Khách khứ tăng vô ngữ Tùng hoa mãn địa hương. | 題嘉林寺 陳光朝 心灰蝸角夢 步履到禪堂 春晚花容薄 林幽蟬韻長 雨收天一碧 池凈月分涼 客去僧無語 松花滿地香 |
Dịch thơ: Viết Ở Chùa Gia Lâm Đã nguội, lòng lợi danh Rão bước đến thiền thành Xuân tàn, hoa mong mảnh Ve sầu thấu rừng xanh Mưa tạnh, trời biên biếc Ao trong, trăng hanh hanh Khách về, sư chẳng nói Đất ngát hương thông lành. Dịch nghĩa: Viết Ở Chùa Gia Lâm Lòng nguội lạnh với giấc mơ danh lợi nhỏ bé Đi tản bộ đến thiền đường Cuối xuân, dáng hoa mỏng mảnh Rừng âm u, tiếng ve sầu dai dẳng Mưa tạnh, trời một màu xanh biếc Ao trong, trăng lạnh lẽo bị chia đôi Khách ra về, sư chẳng nói tiếng nào Đất thơm ngào ngạt mùi hoa tùng. Written at Gia Lam Temple My heart was cold to the small dream of fame I walked to the meditation hall Late spring, flowers were fragile The forest was dark and deep, the cicada chant tedious The pond was clear and the cold moon split into two The rain stopped and the sky was one deep blue The visitor left and the monk had no words The ground was saturated with pine flower flagrance. |
Túc Hoa Âm Tự Nguyễn Trung Ngạn Ngẫu bạng chiêu đề túc, Tăng lưu bán tháp phân. Thạch tuyền triêu cấp thủy, Chỉ trướng dạ miên vân. Tùng tử lâm song trụy, Viên thanh cách ngạn văn. Chúc ngư sao mộng tỉnh, Hoa vũ lạc tân phân. | 宿花陰寺 阮忠彥 偶徬招提宿 僧留半榻分 石泉朝汲水 紙帳夜眠雲 松子臨窗墜 猿聲隔岸聞 粥魚敲夢醒 花雨落繽紛 |
Dịch thơ: Nghỉ Đêm Ở Chùa Hoa Âm Ngẫu nhiên ngủ lại chùa Hoa Âm Sư cụ nhường cho nữa chỗ nằm Mai sớm, nước đem từ suối đá Mây đêm, trướng giấy ẩn mùi trầm Trái thông rụng rớt ngoài song cửa Vượn hú từng hồi thấu cõi âm Tiếng mõ canh khuya làm tỉnh mộng Mưa rơi rực rỡ tợ hoa tâm. Dịch nghĩa: Nghỉ Đêm Ở Chùa Hoa Âm Ngẫu nhiên ngủ đêm trong ngôi chùa Sư giữ lại và nhường cho nửa giường Sáng sớm đi lấy nước ở suối đá Ban đêm ngủ với mây trong trướng (màn) giấy Quả thông rơi bên ngoài cửa sổ Tiếng vượn kêu từ bờ bên kia Tiếng mõ như rụt rè làm tỉnh mộng Mưa như hoa rơi rực rỡ tưng bừng. Spending the Night at Hoa Am Temple Unexpectedly, I spent the night at a temple The monk offered and shared half of his bed In the morning I carried water from the rock stream At night I slept in the cloud behind paper scrolls Pine cones fell by the window Gibbons called from the other side of the stream The sound of the wooden fish woke me from my dream The rain like flowers fell noisily and colorfully. |
Sơn Trung Khiển Hứng
Trần Nguyên Đán
Thập niên chính tỉnh phụ thu đăng
Tùng hạ hành ngâm ỷ sấu đằng
Tùy mã vọng trần vô tục khách
Khấu môn vấn tự hữu thi tăng
Thoái nhàn Lục Dã tri hà cập?
Tán cấp Thanh miêu tạ bất năng
Toạ đãi công thành danh toại hậu
Nhất khâu lão cốt dĩ lăng tằng.
山中遣興
陳元旦
十年政省負秋燈
松下行吟倚瘦藤
隨馬望塵無俗客
叩門問字有詩僧
退閒綠野知何及
散給青苗謝不能
坐待功成名遂後
一丘老骨已崚嶒
Dịch thơ:
Trong Núi Cảm Hứng
Việc nước mười năm bỏ việc nhà
Dưới thông chống gậy vịnh ngân nga
Khách thưa theo ngựa ngắm nhìn bụi
Gõ cửa hỏi thơ sư cụ già
Lục Dã thanh nhàn sao sánh kịp
Xin từ chẳng nhận chút gần xa
Ngồi đợi công thành danh toại đến
Nắm xương tàn tạ đã ra ma.
Dịch nghĩa:
Trong Núi Cảm Hứng
Mười năm lo chính sự, quên chăm xóc cây đèn mùa thu (tuổi già)
Dưới rạng thông, chống gậy khẳng khiêu vừa đi vừa ngâm thơ
Không có khách thăm thì theo sau ngựa xem bụi trần
Có vị sư biết thơ thì gõ cửa hỏi chữ
Lui về Lục Dã sống an nhàn chớ biết làm sao theo kịp
Xin từ chẳng tiền theo phép Thanh Miêu (không muốn vào quan trường).
Ngồi đợi sau này công thành danh toại, công danh thành tựu thỏa thích
Thì nắm xương già đã thành mồ cao chót vót.
Inspiration in the Mountain
I spent ten years in government affairs and neglected my old age
Under the pine trees, I leaned on a slender stick to walk and recite poetry
No guest, I followed the horse and watched dust settle
If there is an educated monk, I knocked at his door and asked about literature
Back to Luc Da to live leisurely, how could I catch up?
I declined the money share as allowed by the administrative rule
Sitting back to wait for later success and fulfillment
My old bones would have been a tall heap of dust.