Source: email Ý Nghĩa Câu Chú : OM MANI PADME HUM

Om Mani Padme Hum là
một câu thần chú tiếng Phạn, được xem là thần chú cầu Quán Thế Âm Bồ Tát
(Avalokiteshvara) và là thần chú quan trọng và lâu đời nhất của Phật giáo Tây
Tạng. Nó còn được mệnh danh là “Lục Tự Đại Minh Chân Ngôn” tức là “Chân ngôn
sáng rõ bao gồm sáu chữ”.
Om : Quy mệnh Mani :
Viên ngọc như ý Padme : Bên trong hoa sen Hum : Tự ngã thành tựu
Có thể dịch câu này là
Om, ngọc quý trong hoa sen, Hum. (Om, to the Jewel in the Lotus, hum). Theo âm
Hán-Việt, câu này được đọc là Úm ma ni bát ni hồng hoặc Án ma ni bát mê hồng.
Thông thường người ta
không giảng nghĩa thần chú, nhưng ở đây cần nói thêm là: “ngọc quý” biểu hiện
cho Bồ-đề tâm (bodhicitta), “hoa sen” chỉ tâm thức con người, ý nghĩa là tâm
Bồ-đề nở trong lòng người. Tuy nhiên thần chú có những âm thanh riêng biệt và
những tác dụng bí ẩn theo cách trình bày của Kim cương thừa. Đối với Phật giáo
Tây tạng thì Om Mani Padme Hum chính là lòng từ bi rộng lớn, muốn đạt Niết-bàn
vì lợi ích của chúng sinh. Vì vậy sáu âm tiết của thần chú này cũng được xem là
tương ưng với sáu cõi tái sinh của dục giới.

Các thần chú là biểu
hiện của âm thanh bắt nguồn từ sự rỗng không. Nó là âm thanh xác thực của khoảng
trống không.
Bắt nguồn từ khái niệm
về chân lý tuyệt đối và trạng thái rỗng không, câu chú không hiện hữu. Không có
âm thanh hay câu chú. Âm thanh và câu chú, như tất cả những dạng biểu thị khác
nhau, đều ở vị trí của cõi tương đối xuất hiện từ rỗng không. Trong cõi tương
đối, mặc dù âm thanh chính nó không có thực thể, nó vẫn có năng lực để chỉ định,
đặt tên, và có sự hoạt động ở tâm thức. Thí dụ, khi có ai đó nói với chúng ta
« Anh là một người tốt » hoặc « Anh là một người khó ưa » , những chữ « tốt »
hoặc « khó ưa » không phải là « vật gì » . Đó chỉ là những âm thanh mà tự nó
không « tốt » hay « khó ưa », nhưng đơn giản gợi lên ý nghĩ về « tốt » hoặc «
khó ưa », và gây ra một tác dụng nơi tâm thức. Cũng như vậy, trong phạm vi tương
đối nơi hành động, thần chú được phú cho một năng lực không thể sai
lạc.
Các câu chú thường là
tên các vị Phật, Bố Tát, hoặc thần thánh. Thí dụ, OM MANI PADME HUNG (ÁN MA-NI
BÁT DI HỒNG) là cách gọi ngài Chenrezig (Quán Âm). Từ quan điểm tuyệt đối,
Chenrezig không có tên, nhưng trong phạm vi ý nghĩa tương đối hoặc nghĩa đen,
ngài có tên gọi riêng. Những tên nầy là trung gian của lòng từ bi, vẻ thanh nhã,
và sức mạnh cùng các nguyện ước của ngài làm lợi ích cho chúng sinh. Bằng cách
niệm danh hiệu của ngài để những phẩm chất tâm thức nầy được truyền đến ta. Ở
đây, việc giải nghĩa về năng lực lợi ích của thần chú, danh hiệu của ngài. Như
chúng ta đồng hóa chúng ta với tên họ và những gì liên hệ đến nó, cũng bằng cách
nầy, trên bình diện tương đối, thần chú đồng nhất với vị thần. Cả hai trở thành
một thực tại duy nhất. Khi một người niệm chú, người ấy nhận được vẻ thanh nhã
của vị thần ; bằng cách hình dung vị thần, vị thánh ấy, người niệm chú nhận được
vẻ thanh nhã không khác biệt của các vị thánh.

Thần chú OM MANI PADME
HUNG đôi lúc được giải thích với những ý nghĩa cầu kỳ và thần bí. Tuy nhiên, như
chúng ta đã nói, đây đơn giản chỉ là tên của Bố Tát Quan Âm (Chenrezig) được đặt
giữa hai âm thanh truyền thống và thiêng liêng, OM và HUNG.
- OM tượng trưng cho
thân các vị Phật, các thần chú đều bắt đầu từ âm nầy. - MANI nghĩa « châu báo
» trong Sanksrit ; - PADME, phát âm theo Sankrit, or PEME trong tiếng Tây
Tạng, có nghĩa « hoa sen » ; - HUNG tượng trưng cho tâm thức tất cả các vị
Phật và thường là câu cuối trong các thần chú. - MANI nói về châu báo mà Bố
Tát Quan Âm (Chenrezig) cầm trong hai tay giữa và PADME là hoa sen cầm ở tay
trái thứ nhì. Khi gọi MANI PADME là gọi tên ngài Chenrezig xuyên qua những phẩm
hạnh của ngài : « Người đang cầm châu báu và hoa sen. » « Chenrezig » hoặc « Hoa
sen báu » là hai tên gọi của ngài Chenrezig (Quán Âm).
Khi chúng ta niệm chú,
thật ra chúng ta đang tiếp tục lặp lại tên ngài Chenrezig. Thực tập nầy có lẽ
trông lạ lùng. Tỷ như có một người mang tên Sonam Tsering và chúng ta lặp đi lặp
lại tên người đó không ngừng nghỉ theo kiểu đọc thần chú. Sonam Tsering, Soanm
Tsering, Sonam Tsering, v..v.. Điều nầy thật là lạ và có thể là vô dụng. Mặt
khác, nếu như niệm câu chú OM MANI PADME HUNG thì có ý nghĩa hơn, vì câu chú nầy
được « đầu tư » bởi sự thanh nhã và năng lực tâm thức của ngài Quan âm
(Chenrezig), ngài Chenrezig đã gom sự thanh nhã và từ bi của tất cả các vị Phật
và Bố Tát. Trong cách nhìn nầy, câu chú được phú cho khả năng vén màn tâm tối,
và thanh tịnh hóa tâm thức chúng ta. Thần chú mở mang tâm thức thương yêu và từ
bi, đưa đến sự tỉnh thức giác ngộ.
Các vị bồ tát và thần
chú là một nguyên thể, nghĩa là một người có thể niệm chú mà không cần thiết
phải hình dung, tưởng tượng. Niệm chú vẫn có hiệu quả. Phẩm chất xác thực của
mỗi âm trong sáu âm của câu chú được giải thích rất phù hợp. Trước tiên, hãy
để chúng ta xem mỗi âm giúp chúng ta đóng cánh cửa tái sanh đau khổ, một trong
sáu cõi hiện hữu của vòng luân hồi : - OM đóng cánh cửa luân hồi trong cõi
trời ; - MA, cánh cửa cõi thần, A-tu-la - NI, cánh cửa cõi người - PAD,
cánh cửa cõi súc sanh - ME, cánh cửa cõi ngạ quỷ ; - HUNG, cánh cửa cõi
địa ngục.
Mỗi âm tiết được xem
như có ảnh hưởng thanh tịnh hóa : - OM thanh tịnh hóa bản thân ; - MA
thanh tịnh hóa lời nói ; - NI thanh tịnh hóa tâm thức ; - PAD thanh tịnh
hóa những cảm xúc mâu thuẫn ; - ME thanh tịnh hóa điều kiện ẩn tàng ; -
HUNG thanh tịnh hóa tấm màn che phủ trí tuệ.
Mỗi âm tiết là một bài
cầu nguyện : - OM lời cầu nguyện hướng về thân thể của các vị Phật ; - MA
lời cầu nguyện hướng về lời nói của các vị Phật ; - NI lời cầu nguyện hướng
về tâm thức các vị Phật ; - PAD lời cầu nguyện hướng về những phẩm chất của
các vị Phật ; - ME lời cầu nguyện hướng về hoạt động của các vị Phật ; -
HUNG gom góp sự thanh nhã của thân, khẩu, ý, phẩm chất, và hoạt động của các vị
Phật.
Sáu âm tiết liên hệ đến
sáu ba-la-mật, sáu sự hoàn hảo được chuyển hóa : - OM liên hệ đến sự rộng
lượng ; - MA, đạo đức ; - NI, kiên trì, nhẫn nhịn, - PAD, chuyên
cần, - ME, chú tâm, - HUNG, trí tuệ.
Sáu âm tiết cũng liên
quan đến sáu vị Phật, ngự trị trên sáu Phật gia : -OM liên hệ đến
Ratnasambhava (Bảo-Sanh Phật) ; - MA, Amaghasiddi (Bất-Không-Thành-Tựu Phật)
; - NI, Vajradhara (Kim Cương Trì / Phổ-Hiền Bồ Tát) ; - PAD, Vairocana
(Lô-Xá-Na Phật) ; - ME, Amitabha (A-Di-Đà Phật) ; - HUNG, Akshobya
(A-Súc-Bệ Phật) .
Cuối cùng, sáu âm tiết
liên hệ đến sáu trí tuệ : - OM = Trí tuệ thanh thản, an bình ; - MA = trí
tuệ hoạt động ; - NI = trí tuệ tự tái sanh ; - PAD = trí tuệ pháp giới
; - ME = trí tuệ phân biệt ; - HUNG = trí tuệ như gương.

Ở Tây Tạng, mọi người
thường tụng niệm thần chú của ngài Chenrezig (Quan Âm). Sự đơn giản và phổ thông
của thần chú không làm giảm đi sự to tát của thần chú, và còn có giá trị to lớn
hơn. Điều nầy được thể hiện trong câu nói khôi hài sau :
Ở đoạn khởi đầu, không
có đau khổ vì không biết, Ở đoạn giữa, không có lòng tự kiêu vì hiểu
biết, Ở đoạn cuối, không sợ quên câu chú.
Không có sự hiểu biết
về lý luận, y học, chiêm tinh học, và những môn khoa học khác là sự đau khổ, bởi
vì một người có thể bỏ nhiều năng lực, cố gắng và chấp nhận nhiều mệt mỏi để học
hỏi nó. Tuy nhiên, trong vài giây ngắn ngủi đã đủ để học thuộc thần chú của ngài
Chenrezig. Không cần đối diện với đau khổ từ si mê cho đến hiểu biết. Bởi vì
vậy, « Ở đoạn đầu không có đau khổ vì không biết. »
Một người sau mấy năm
học hỏi môn khoa học khó khăn sẽ nhận được danh vọng hoặc chức vị ở xã hội, và
họ hoàn toàn hài lòng với bản thân và tin rằng họ giỏi hơn tất cả những người
khác. Thần chú đơn giản của ngài Chenrezig giúp cho một người tránh rơi vào tình
trạng nói trên. Như vậy, « Ở đoạn giữa, không kiêu ngạo khi hiểu biết. »
Cuối cùng, nếu chúng ta
không gìn giữ câu chú, sự hiểu biết mà chúng ta thâu thập được trong y học,
chiêm tinh học, hoặc những môn khoa học khác có thể dần dà bị mai một. Nhưng
không thể nào quên được sáu âm tiết câu chú. OM MANI PADME HUNG. Vậy, « Ở đoạn
cuối, không sợ quên câu chú. »
Cũng vậy, từ những bài
ghi chú của tôi « Cơn mưa liên tục làm lợi ích cho Chúng Sinh » :
- OM là màu TRẮNG
; - MA, màu XANH LÁ CÂY ; - NI , màu VÀNG ; - PAD, màu XANH DA TRỜI
; - ME, màu ĐỎ ; - HUNG, màu ĐEN.
Câu chú có thể được tóm
tắt như sau : « Tôi cầu xin hiện thân của năm dạng và năm ý thức chuyển hóa, Vị
bồ tát sỡ hữu viên ngọc và hoa sen để bảo hộ tôi thoát khỏi những nỗi đau khổ
của chúng sinh trong sáu cõi. »
OM MANI PADME HUNG là
bản tóm tắt của bộ sưu tập kiến thức trực tiếp của tất cả các vị Phật. Những chỉ
dẫn bao gồm trong mỗi âm của sáu âm tiết, là bản chất Tinh Thông Bí mật về các
vị Phật, là nguồn gốc của tất cả mọi phẩm chất và hạnh phúc sâu sắc, gốc rễ của
các thành tựu lợi ích, sung sướng, và là con đường vĩ đại đưa đến những hiện hữu
và tự do cao cả.
(Nguồn: Phần phụ lục
sách: “Tạng thư Sống Chết”) The Tibetan Book Of Living And Dying Sogyal
Rinpoche Ni sư Thích Nữ Trí Hải dịch
Tạng ngữ đọc là Om Mani
Pémé Hung. Thần chú này tiêu biểu tâm đại bi và ân sủng của tất cả chư Phật,
Bồ-tát, nhất là ân sủng của Quán Tự Tại, vị Phật của lòng bi mẫn. Quán Tự Tại
(hay Quán Thế Âm) là hiện thân của Phật trong hình thức Báo thân, và thần chú
của ngài được xem là tinh túy của lòng bi mẫn của chư Phật đối với hữu tình. Nếu
Ngài Liên Hoa Sinh là bậc thầy quan trọng nhất của người Tây Tạng, thì Quán Tự
Tại là vị Phật quan trọng nhất của họ, là vị thần hộ mệnh của dân tộc này. Có
câu nói nổi tiếng là vị Phật của lòng bi mẫn đã ăn sâu vào tiềm thức Tây Tạng
tới nỗi một hài nhi vừa biết nói tiếng “Mẹ” là đã biết đọc thần chú này, OM MANI
PADME HUM.

Tương truyền vô lượng
kiếp về trước có một ngàn thái tử phát tâm Bồ-đề nguyện thành Phật. Một vị
nguyện thành Phật Thích Ca mà ta đã biết ; nhưng Quán Tự Tại thì nguyện sẽ không
đạt thành Chính giác khi mà tất cả ngàn thái tử chưa thành. Với tâm đại bi vô
biên, ngài còn nguyện giải thoát tất cả chúng sinh ra khỏi khổ sinh tử luân hồi
trong lục đạo. Trước mười phương chư Phật, ngài phát nguyện: “Nguyện cho con cứu
giúp được tất cả hữu tình, và nếu có khi nào con mệt mỏi trong công việc lớn lao
này thì nguyện cho thân con tan thành một ngàn mảnh”.
Đầu tiên, ngài xuống
cõi địa ngục, tiến lên dần đến cõi ngạ quỷ, cho đến các cõi trời. Từ đấy ngài
tình cờ nhìn xuống và trông thấy than ôi, mặc dù ngài đã cứu vô số chúng sinh
thoát khỏi địa ngục, vẫn còn có vô số khác đang sa vào. Điều này làm cho ngài
đau buồn vô tận, trong một lúc ngài gần mất tất cả niềm tin vào lời nguyện vĩ
đại mà ngài đã phát, và thân thể ngài liền nổ tung thành ngàn mảnh. Trong cơn
tuyệt vọng, ngài kêu cứu tất cả chư Phật. Những vị này từ mười phương thế giới
đều bay đến như mưa tuyết để tiếp cứu. Với thần lực nhiệm mầu, chư Phật làm cho
ngài hiện toàn thân trở lại, và từ đấy Quán Tự Tại có mười một cái đầu, một ngàn
cánh tay, trên mỗi lòng tay có một con mắt. Ý nghĩa rằng sự phối hợp giữa trí
tuệ và phương tiện thiện xảo là dấu hiệu của đại bi chân thực. Trong hình thức
này, ngài còn sáng chói rực rỡ, và có nhiều năng lực hơn trước để cứu giúp tất
cả chúng sinh. Tâm đại bi của ngài khi ấy còn mãnh liệt hơn nữa, và ngài lại
phát lời nguyện này trước chư Phật: “Con nguyện không thành Chính giác khi tất
cả chúng sinh chưa thành”.
Tương truyền rằng vì
đau buồn trước nỗi khổ luân hồi sinh tử, hai giọt nước nướt mắt đã rơi từ đôi
mắt ngài, và chư Phật đã làm phép biến hai giọt nước mắt ấy thành hai nữ thần
Tara. Một nữ thần có màu xanh lục, năng lực hoạt động của tâm đại bi, và một nữ
thần có màu trắng, khía cạnh như mẹ hiền của tâm đại bi. Tara có nghĩa là người
giải cứu, người chuyên chở chúng ta vượt qua biển sinh tử.
Theo kinh điển đại
thừa, chính Quán Tự Tại đã cho đức Phật câu thần chú, và đức Phật trở lại giao
phó cho ngài công tác cao quý đặc biệt là cứu giúp tất cả chúng sinh tiến đến
giác ngộ. Vào lúc ấy, chư thiên tung hoa xuống ca ngợi hai ngài, quả đất chấn
động, và không trung vang lên âm thanh OM MANI PADME HUM HRIH.

Có câu thơ về ngài ý
nghĩa như sau:
“Quán Thế Âm như vầng
trăng, với ánh sáng mát dịu, dập tắt những thiêu đốt của sinh tử. Trong ánh sáng
ấy, đóa sen từ bi – lọai hoa nở về đêm – mở ra những cánh trắng tinh khôi”
.
Giáo lý giải thích rằng
mỗi âm trong sáu âm của thần chú OM MANI PADME HUM có một hiệu quả đặc biệt để
mang lại sự chuyển hóa thuộc nhiều tầng lớp khác nhau của bản thể ta. Sáu âm này
tịnh hóa tất cả sáu phiền não gốc, biểu hiện của vô minh khiến chúng ta làm
những ác nghiệp của thân, lời, ý, tạo ra luân hồi sinh tử và những khổ đau của
chúng ta, trong đó kiêu mạn, ganh tị , dục vọng, ngu si, thèm khát và giận dữ,
nhờ thần chú mà được chuyển hóa trở về bản chất thực của chúng, trí giác của sáu
bộ tộc Phật thể hiện trong tâm giác ngộ. (Chú thích: Giáo lý thường nói đến năm
bộ tộc Phật, bộ tộc thứ sáu là tổng hợp của năm bộ tộc trên).
Bởi thế, khi ta tụng
thần chú OM MANI PADME HUM thì sáu phiền não nói trên được tịnh hóa, nhờ vậy
ngăn ngừa được sự tái sinh vào sáu cõi, xua tan nỗi khổ ẩn tàng trong mỗi cõi.
Đồng thời thần chú này cũng tịnh hóa các uẩn thuộc ngã chấp, hoàn thành sáu hạnh
siêu việt của tâm giác ngộ (sáu ba la mật): bố thí, trì giới, nhẫn nhục, tinh
tấn, thiền định và trí tuệ. Người ta cũng nói rằng thần chú OM MANI PADME HUM có
năng lực hộ trì rất lớn, che chở ta khỏi những ảnh hưởng xấu và các thứ tật
bệnh.

Thường có chủng tự HRIH
của Quán Thế Âm được thêm vào sau câu thần chú, làm thành OM MANI PADME HUM
HRIH. HRIH là tinh yếu tâm đại bi của tất cả chư Phật, là chất xúc tác đã khởi
động tâm đại bi chư Phật để chuyển hóa các phiền não của ta thành bản chất trí
tuệ của các ngài.
Kalu Rinpoche
viết:
Một cách khác để giải
thích thần chú này là: OM là tính chất của thân giác ngộ, MANI PADME tiêu biểu
ngữ giác ngộ, HUM tiêu biểu ý giác ngộ. Thân, ngữ, ý của tất cả chư Phật được
tàng ẩn trong âm thanh của thần chú này. Thần chú này tịnh hóa những chướng ngại
của thân, lời, ý, và đưa tất cả hữu tình đến trạng thái chứng ngộ. Khi tụng thần
chú này, mà phối hợp với đức tin và tinh tiến thiền định thì năng lực chuyển hóa
của thần chú sẽ phát sinh và tăng trưởng. Quả vậy, chúng ta có thể tịnh hóa bản
thân bằng phương pháp ấy.
Đối với những người đã
quen thuộc với thần chú này, suốt đời tụng đọc với nhiệt thành và niềm tin, thì
Tử Thư Tây Tạng nói, ở trong cõi Trung Ấm: “Khi âm thanh của pháp tính gầm thét
như ngàn muôn sấm sét, nguyện cho tất cả tiếng này trở thành âm thanh của thần
chú sáu âm”. Tương tự, kinh Lăng Nghiêm cũng nói:
“Mầu nhiệm thay là âm
thanh siêu việt của Quán Thế Âm. Đấy là âm thanh tối sơ của vũ trụ… Đó là tiếng
thì thầm âm ỉ của thủy triều trầm lắng. Tiếng mầu nhiệm ấy đem lại giải thoát
bình an cho tất cả hữu tình đang kêu cứu trong cơn đau khổ, và đem lại một sự an
trú thanh tịnh cho tất cả những ai đang tìm sự thanh tịnh vô biên của niết
bàn”.

(Đức Đạt-lai Lạt-ma
thuyết giảng Hồng Như Việt dịch) Nguyên bản tiếng Anh: Om Mani Padme Hum, by
HH the Dalai Lama http://www.tibet.com/Buddhism/om-mantra.html.
Hồng Như chuyển Việt ngữ.
Trì tụng minh chú Om
mani padme hum [Án ma ni bát di hồng] là một việc rất tốt. Tuy vậy, khi tụng chú
cần phải nhớ nghĩ đến ý nghĩa của lời chú, vì sáu âm này mang ý nghĩa thâm sâu
quảng đại vô cùng. Âm thứ nhất, OM, là tổng hợp của ba mẫu tự A, U và M, tượng
trưng cho thân miệng ý ô nhiễm của người tụng chú, đồng thời cũng tượng trưng
cho thân miệng ý thanh tịnh của Phật đà.
Có thể nào chuyển thân
miệng ý ô nhiễm thành thân miệng ý thanh tịnh được không? hay đây là hai phạm
trù hoàn toàn tách biệt? Tất cả chư Phật đều là đã từng là chúng sinh, nhờ bước
theo đường tu nên mới thành đấng giác ngộ; Phật Giáo không công nhận có ai ngay
từ đầu đã thoát mọi ô nhiễm, mang đủ mọi tánh đức. Thân miệng ý thanh tịnh đến
từ sự tách lìa trạng thái ô nhiễm, chuyển hóa ô nhiễm thành thanh tịnh.
Chuyển hóa bằng cách
nào? Phương pháp tu được nhắc đến qua bốn âm kế tiếp. MANI [ma ni], nghĩa là
ngọc báu, tượng trương cho phương tiện, là tâm bồ đề, vì chúng sinh mà nguyện mở
tâm từ bi, đạt giác ngộ. Cũng như viên ngọc quí có khả năng xóa bỏ cảnh nghèo,
tâm bồ đề cũng vậy, có khả năng xóa bỏ sự bần cùng khó khăn trong cõi luân hồi
và niết bàn cá nhân. Như ngọc như ý có khả năng chu toàn mọi ước nguyện của
chúng sinh, tâm bồ đề cũng vậy, có khả năng chu toàn mọi ước nguyện chúng sinh.
Hai chữ PADME [bát mê],
nghĩa là hoa sen, tượng trưng cho trí tuệ. Hoa sen từ bùn mọc lên nhưng lại
không ô nhiễm vì bùn. Tương tự như vậy, trí tuệ có khả năng đặt người tu vào vị
trí không mâu thuẫn ở những nơi mà người thiếu trí tuệ đều sẽ thấy đầy mâu
thuẫn. Có nhiều loại trí tuệ, trí tuệ chứng vô thường, trí tuệ chứng nhân vô ngã
(con người không tự có một cách độc lập cố định), trí tuệ chứng tánh không giữa
các phạm trù đối kháng (nói cách khác, giữa chủ thể và khách thể) và trí tuệ
chứng sự không có tự tánh. Mặc dù có nhiều loại trí tuệ, nhưng chính yếu vẫn là
trí tuệ chứng tánh Không.

Trạng thái thanh tịnh
có được là nhờ sự kết hợp thuần nhất giữa phương tiện và trí tuệ, được thể hiện
qua âm cuối, HUM [hồng]. Âm này ứng vào trạng thái bất nhị, không thể phân chia.
Trong hiển thừa, phương tiện và trí tuệ bất nhị có nghĩa là phương tiện ảnh
hưởng trí tuệ, và trí tuệ ảnh hưởng phương tiện. Trong mật thừa, sự hợp nhất này
ứng vào một niệm tâm thức trong đó phương tiện và trí tuệ đồng loạt hiện hành.
Nói về chủng tự của năm vị Thiền Phật, HUM là chủng tự của Bất Động Phật
[Akshobhya], sự đứng yên không gì có thể lay chuyển nổi.
Vậy Lục Tự Đại Minh
Chú, Om mani padme hum, có nghĩa là dựa vào đường tu kết hợp thuần nhất phương
tiện và trí tuệ mà người tu có thể chuyển hóa thân miệng ý ô nhiễm của mình
thành thân miệng ý thanh tịnh của Phật. Thường nói người tu không thể tìm Phật ở
bên ngoài, tất cả mọi nhân tố dẫn đến giác ngộ đều sẵn có từ bên trong. Đức Di
Lạc Từ Tôn có dạy trong bộ Tối Thượng Đại Thừa Mật Luận (Uttaratantra) rằng tất
cả chúng sinh đều có Phật tánh trong tâm. Chúng ta ai cũng mang sẵn trong mình
hạt giống thanh tịnh, cốt tủy của Như Lai (Tathatagarbha – Như lai tạng), đó là
điều cần nuôi nấng phát triển đến mức tột cùng để bước vào địa vị Phật đà.

Những lợi ích của việc
trì tụng thần chú của Đức Phật Bi Mẫn thì thật vô biên, giống như bầu trời bao
la vô hạn.
Cho dù bạn không hiểu
biết nhiều về Pháp, cho dù điều duy nhất bạn biết là Om Mani Padme Hum thì cuộc
đời hạnh phúc nhất vẫn là cuộc đời được sống với một thái độ giải thoát khỏi tám
mối bận tâm thế tục. Nếu bạn sống cuộc đời mình với thái độ trong sạch thoát
khỏi sự tham luyến với cuộc đời này và chỉ đơn thuần trải đời mình trong việc
trì tụng Om Mani Padme Hum – thần chú sáu-âm này là tinh tuý của toàn bộ Giáo
Pháp – thì đó là Pháp thanh tịnh nhất. Việc trì tụng có vẻ rất đơn giản, rất dễ
dàng. Nhưng nếu bạn nghĩ tưởng về những lợi lạc của nó, thì điều đó không hoàn
toàn đơn giản. Ở đây tôi sẽ chỉ đề cập tới cốt lõi của những lợi lạc vô biên của
nó.
Trì tụng thần chú của
Đức Phật Bi Mẫn chỉ một lần sẽ hoàn toàn tịnh hoá sự gãy bể bốn giới nguyện gốc
của Biệt Giải thoát và năm nghiệp tiêu cực không bị đứt đoạn.(*)
Trong các tantra cũng
đề cập rằng nhờ trì tụng thần chú này bạn sẽ thành tựu bốn phẩm tính để được
sinh vào cõi Tịnh độ của Đức Phật A Di Đà và những cõi Tịnh độ khác; vào lúc
chết được thấy Đức Phật và ánh sáng xuất hiện trên bầu trời; chư thiên cúng
dường bạn; và không bao giờ bị tái sinh trong các cõi địa ngục, ngạ quỷ hay súc
sinh. Bạn sẽ được tái sinh trong cõi Tịnh độ của Đức Phật hay như một hiện thể
tái sanh tốt lành.
Khi một người trì tụng
mười chuỗi thần chú một ngày bơi lội, dù trong sông, biển hay một vài sinh loài
sống trong nước nào khác, nước chạm vào thân người đó cũng sẽ được ban
phước. Ta cũng được biết rằng bảy đời tổ tiên (cửu huyền thất tổ) của người
đó cũng không bị tái sinh trong các cõi thấp. Đó là nhờ năng lực của thần chú,
thân được ban phước bởi những người trì tụng thần chú và quán tưởng thân họ
trong sắc tướng của thân linh thánh như Đức Chenrezig (Quán Thế Âm). Vì thế,
thân thể trở nên rất mạnh mẽ, tràn đầy ân phước đến nỗi nó tác động tới tâm thức
cho tới bảy đời và kết quả là nếu người ấy chết với một niệm tưởng bất thiện,
người ấy sẽ không bị tái sinh trong một cõi thấp.
Vì thế, khi một người
mà mỗi ngày từng trì tụng mười chuỗi Om Mani Padme Hum đi xuống sông hay biển,
nước chạm vào thân người ấy được ban phước, và sau đó chất nước được ban phước
đó sẽ tịnh hoá hàng tỉ tỉ chúng sinh trong nước. Người này cứu giúp những sinh
vật trong nước đó thoát khỏi nỗi khổ không thể tưởng tượng nổi nơi các cõi thấp.
Việc ấy thật lợi lạc đến mức khó tin.
Khi một người như thế
đi xuống một con đường, gió chạm vào thân người ấy và sau đó tiếp tục chạm vào
những côn trùng, nghiệp tiêu cực của chúng được tịnh hoá và nhờ đó chúng có một
tái sinh tốt đẹp. Tương tự như vậy, khi một người như thế xúc chạm vào thân
người khác, nghiệp tiêu cực của những người đó cũng được tịnh hoá.
Việc một người như thế
nhìn ngắm thì thật đầy ý nghĩa; việc được nhìn và xúc chạm trở thành một phương
tiện để giải thoát chúng sinh. Điều này có nghĩa là thậm chí hơi thở của người
đó chạm vào thân của chúng sinh khác cũng tịnh hoá nghiệp tiêu cực của họ. Bất
kỳ sinh loài nào uống nước trong đó một người như thế từng bơi lội cũng được
tịnh hoá.
Chúng ta có may mắn lạ
lùng là đã gặp được Pháp và có cơ hội để trì tụng và thiền định về Đức Phật Bi
Mẫn. Đó là một phương pháp dễ dàng để tịnh hoá bất kỳ nghiệp tiêu cực nào mà ta
từng tích tập, không chỉ trong đời này mà còn trong nhiều đời trước nữa.
Bởi chúng ta từng gặp
được Phật Pháp và đặc biệt là phương pháp này – sự thực hành Đức Phật Bi Mẫn và
trì tụng thần chú của Ngài – nó thật dễ dàng để tịnh hoá nghiệp tiêu cực và tích
tập công đức rộng lớn và do đó thành tựu sự Giác ngộ. Chúng ta thật may mắn
không ngờ.
Như thế, chẳng còn gì
ngu dại hơn việc không chịu sử dụng sự thuận lợi của cơ hội vĩ đại này. Nói
chung, chúng ta liên tục xao lãng và phí phạm cuộc đời mình. Không chỉ có thế,
mọi hành vi được làm với bản ngã và tâm thức nhiễm ô ba độc tham, sân và si tạo
nên nghiệp tiêu cực, là nguyên nhân của đau khổ. Trong cả cuộc đời, không còn gì
ngu xuẩn hơn việc sử dụng thân người toàn hảo này chỉ để tạo nên đau khổ.
Ở những nơi như Tây
Tạng, Nepal, Ấn Độ, và Ladakh đã có một truyền thống tốt đẹp lâu đời là thực
hiện khoá nhập thất Đức Phật Bi Mẫn và trì tụng 100 triệu thần chú Om Mani Padme
Hum. Khoá nhập thất được tổ chức ở Viện Chenrezig là kỳ nhập thất như thế lần
đầu tiên được tiến hành ở Tây phương và khoá nhập thất đầu tiên trong tổ chức
FPMT (Hội Bảo vệ Truyền thống Đại thừa). Việc này xảy ra ở đó mỗi năm một lần –
mỗi năm chỉ một lần! Nếu bạn bị dày vò bởi tội lỗi trong đời mình, bạn có thể
khắc phục cảm xúc đó bằng sự tịnh hoá khi tham dự khoá nhập thất này. Khoá nhập
thất không chỉ trì tụng các thần chú với các sadhana, mà cũng bao gồm cả việc
trì giữ Tám Giới luật Đại Thừa, nếu không mỗi ngày thì ít nhất cũng thường
xuyên. Bất kỳ công đức nào mà bạn tích tập trong ngày đó sẽ tăng trưởng gấp
100.000 lần. Việc này trở nên một phương pháp dễ dàng và nhanh chóng để tịnh
hoá, tích tập công đức bao la, thành tựu sự Giác ngộ và giải thoát chúng sinh
khỏi nỗi khổ không thể tưởng tượng nổi và mau chóng đưa họ tới sự Giác ngộ.
Được tham dự một kỳ
nhập thất mani (Thần chú Sáu-Âm) là một điều may mắn khó tin. Cho dù bạn không
thể hiện diện trong toàn bộ khoá nhập thất, bạn cũng có thể tham dự hai tháng,
một tháng hay ít nhất một vài tuần. Thậm chí bạn có thể chỉ nhập thất một tuần.
Tôi đặc biệt hy vọng rằng khoá nhập thất này sẽ được tổ chức tại Mông Cổ, bởi
thực phẩm chính của họ là thịt và quá nhiều thú vật bị giết mỗi ngày ở đó. Thực
hành này trợ giúp để tịnh hoá điều đó. Sau khi các ngôi chùa của chúng tôi ở
Mông Cổ được xây dựng xong, tôi hy vọng rằng hàng ngàn người sẽ tham dự các kỳ
nhập thất mani tại đó. Dần dần, tôi mong muốn khoá nhập thất này cũng được tổ
chức ở nhiều nơi khác tại phương Tây.
Khoá nhập thất này cũng
ban phước cho quốc gia ở đó nó được tổ chức và đem lại rất nhiều sự an lạc, hạnh
phúc và thịnh vượng.
Cho dù bạn hiểu biết
giáo lý về cách thiền định về Bồ Đề Tâm, bạn vẫn cần thọ nhận những ân phước đặc
biệt của vị Bổn Tôn, Đức Phật Bi mẫn. Bạn nhận những ban phước này bằng cách
thực hiện việc thiền định và trì tụng mà chúng tôi thực hành trong khoá nhập
thất mani. Như thế, việc trì tụng Om Mani Padme Hum là một phương pháp thể nhập
Bồ Đề Tâm – để chuyển hoá tâm bạn thành Bồ Đề Tâm và làm cho việc bạn thiền định
về Bồ Đề Tâm được hiệu quả.
Nói chung, theo kinh
nghiệm của tôi, ở trụ xứ của tôi tại Solu Khumbu trong rặng Hymalayas tại Nepal,
có những người sống cuộc đời họ trong việc trì tụng Om Mani Padme Hum nhưng
không có chút ý niệm nào về tánh Không – ngay cả trên chữ nghĩa. Mặc dù họ không
thể đọc và thậm chí không biết vần abc, họ có một lòng sùng mộ vĩ đại đối với
lòng bi mẫn và Bồ Đề Tâm và sống cuộc đời họ trong việc trì tụng Om Mani Padme
Hum. Những người như thế có một trái tim nồng nhiệt, hết sức thiện tâm, vô cùng
bi mẫn. Đây là một bằng chúng từ kinh nghiệm của tôi rằng nó hữu hiệu trong việc
chuyển hoá tâm thức thành một trái tim tốt lành và bi mẫn.
Không có Bồ Đề Tâm, bạn
không thể đem lại hạnh phúc cho tất cả chúng sinh. Bạn không thể thực hiện những
công việc toàn hảo cho tất cả chúng sinh; và bạn không thể thành tựu những phẩm
tính toàn thiện về những sự chứng ngộ và ngừng dứt, thậm chí cho chính
bạn. Như thế, mọi người sẽ rất được hoan nghênh khi tham dự khoá nhập thất
100 triệu thần chú Om Mani Padme Hum.
Án Ma Ni Bát Di Hồng
( OM MANI PADME
HUM)
Tam Tạng Pháp Sư Tuyên Hóa Thượng Nhân
giảng vào năm 1971
http://www.dharmasite.net/bdh72/AnMaNiBatDiHong.html
Nếu quý vị có thể thường xuyên trì tụng Chú Lục Tự Đại Minh
thì sẽ chiêu cảm được sáu đạo ánh sáng có công năng biến đổi sự tối tăm của sáu
nẻo luân hồi trở nên sáng lạn.
Sáu chữ nầy gọi là “Chú Lục Tự Đại Minh”, mỗi chữ đều có thể
phóng ra một luồng ánh sáng.
Mật tông chuyên nghiên cứu về lời và ý nghĩa của thần chú.
Phật giáo phân thành năm tông phái là: Thiền tông, Giáo tông, Luật tông, Mật
tông và Tịnh Độ tông. Thiền tông chuyên về tham thiền tĩnh tọa; Giáo tông chuyên
về giảng kinh thuyết pháp; Luật tông thì tu trì, nghiêm tịnh giới luật, làm mô
phạm trong ba cõi. Về Mật tông, thì “mật” là bí mật, là “không biết lẫn nhau”
(hỗ bất tương tri). Tịnh Độ tông thì chuyên trì danh hiệu, niệm sáu chữ hồng
danh “Nam Mô A Di Đà Phật”.
Trong năm tông phái nầy, có người cho rằng Thiền tông là hơn
hết; có người lại cho Giáo tông hay nhất; lại có người cho Luật tông là đứng
đầu; người tu theo Mật tông thì nói Mật tông của mình là cao siêu nhất; người tu
theo pháp môn Tịnh Độ thì nói pháp môn Tịnh Độ là số một, không gì sánh bằng.
Trên thực tế, các pháp đều bình đẳng, không có cao thấp—“thị pháp bình đẳng, vô
hữu cao hạ”. Cho rằng một pháp nào đó tối thắng, chẳng qua chỉ là cái thấy của
cá nhân, mình thích tông nào thì cho tông đó là nhất.
Bây giờ chúng ta đang nói về Mật tông. Theo cách hiểu thông
thường của mọi người thì Mật tông là Lạt Ma giáo. Kỳ thực, Mật tông không phải
là cái gì bí mật. Trong Hiển giáo thì Hiển-Mật viên thông—trong Hiển giáo cũng
có Mật giáo; như Chú Đại Bi, Chú Lục Tự Đại Minh đều là “mật” cả. Chú Lăng
Nghiêm lại càng “mật” hơn nữa. Nên nói “mật” chính là, không biết lẫn
nhau.
Người không hiểu thì cho rằng cái gì bí mật mới tốt nhất, vì
nó không được truyền bá công khai. Có một số người không hiểu Phật Pháp, lại
càng làm ra vẻ thần bí, bảo: “Cái nầy không thể giảng cho ông nghe được. Mật
tông của tôi ấy à, không thể giảng cho ông nghe được đâu!” Quý vị không thể
giảng cho người khác nghe, thì tại sao quý vị lại đề cập đến nó chứ? Tại sao quý
vị lại nói: “Tôi không thể giảng cho ông nghe”? Nếu thật sự là Mật tông thì phải
không nói gì cả mới đúng, tại sao quý vị còn nói: “Tôi không thể giảng cho ông
nghe”? Quý vị nói rằng mình không thể giảng, song, như thế có phải là quý vị đã
giảng rồi không? Đó chính là quý vị đã giảng rồi đấy! Thế tại sao còn nói là
không thể giảng được? Là vì không hiểu rõ Phật Pháp, căn bản không hiểu được cái
gì gọi là “Mật Tông”!
Bây giờ tôi sẽ nói cho quý vị nghe về Mật tông. Lời chú,
thật ra không có gì bí mật cả. Sở dĩ được gọi là Mật tông, vì khi quý vị trì
tụng lời chú, bản thân quý vị sẽ nhận được sự linh cảm mà tôi không thể biết
được; khi tôi trì tụng lời chú, thì bản thân tôi sẽ có được sự linh cảm mà quý
vị không thể biết được. Vì chúng ta không thể biết được công năng và sức mạnh
của lời chú đối với mỗi người, cho nên gọi là Mật tông; chứ bản thân bài chú
tuyệt đối không phải là Mật tông. Chính năng lực của chú mới là “mật”. Đó là ý
nghĩa của Mật tông vậy.
Nếu lời chú là bí mật, thì quý vị không nên truyền cho người
khác; một khi quý vị đem truyền cho người khác thì nó không còn là bí mật nữa.
Cũng thế, Lục Tổ và Huệ Minh có một đoạn đối đáp như sau:
Huệ Minh hỏi: “Ngoài mật ngữ mật ý Ngài vừa giảng, còn mật ý
nào nữa chăng?”
Lục Tổ đáp: “"Ðiều tôi nói với ông đó chẳng phải là mật. Nếu
ông phản chiếu, thì mật ấy ở ngay nơi ông."
Quý vị thấy không, đoạn đối đáp trên đã nói rất rõ ràng:
Điều mà quý vị có thể nói ra thì chẳng còn là bí mật nữa. Những gì có thể trao
truyền cho quý vị cũng giống như thế. Nếu là bí mật thì không nên truyền. Sự bí
mật vốn ở ngay nơi quý vị, sát bên cạnh quý vị. Đây mới chính là cái được gọi là
bí mật.
Bài chú nào cũng đều có thể trao truyền cho mọi người, lời
chú nào cũng đều có thể nói ra; không có bài chú nào là không thể nói ra cả! Nếu
không được nói ra thì họ sẽ không có cách nào để truyền cho quý vị, có đúng vậy
không nào? Chúng ta giảng chân lý nầy là vì nó có thể được truyền đạt cho quý
vị, không phải là bí mật—đây không phải là Mật tông!
“Mật,” thì không có cách gì để truyền đạt. Điều bí mật chính
là năng lực của bài chú. Không ai có thể nói cho quý vị biết chú nầy có năng lực
gì, hoặc quý vị trì tụng thì sẽ như thế nào, như thế nào; mà “như người uống
nước, nóng lạnh tự biết”—chỉ có quý vị tự mình biết mình mà thôi, người khác
không thể nào biết được, do đó gọi là “mật”. Năng lực là bí mật, sự cảm ứng là
bí mật, diệu dụng là bí mật, chứ không phải bài chú là bí mật! Bây giờ quý vị
đều hiểu rõ rồi chứ?
Những người không hiểu rõ Phật Pháp ắt hẳn cho rằng tôi
giảng không đúng. Cho dù là không đúng, tôi cũng vẫn muốn nói như vậy. Quý vị
cho là tôi đúng ư? Quý vị không thể nào nói như vậy được! Bởi vì quý vị vốn hoàn
toàn không hiểu gì cả, thì làm thế nào quý vị biết được là tôi hiểu!!! Tôi thì
càng không hiểu gì cả; tôi còn hồ đồ hơn nữa! Có điều, trước kia sư phụ tôi đã
chỉ dạy cho tôi rất rõ ràng, cho nên mới biến đổi kẻ hồ đồ này thành một người
biết giảng Chú Lục Tự Đại Minh của Mật tông!
Mật tông được chia thành năm bộ—Đông, Tây , Nam , Bắc, và
Trung ương. Phương Đông là bộ Kim Cang, chuyên hộ trì chánh pháp; bộ Bảo Sanh ở
phương Nam; bộ Liên Hoa ở phương Tây; bộ Yết Ma ở phương Bắc và bộ Phật ở chính
giữa. Nếu có thời gian quý vị hãy nghiên cứu Chú Lăng Nghiêm, trong đó có giảng
về năm bộ này một cách tường tận.
Trên thế gian, nếu có một người trì niệm Chú Lăng Nghiêm thì
ma vương không dám xuất hiện; nếu không có người biết trì niệm Chú Lăng Nghiêm
thì ma vương trong ba ngàn đại thiên thế giới sẽ lũ lượt kéo đến thế gian. Tại
sao ư? Vì không có người quản thúc chúng, năm bộ đều không hoạt động, cho nên ma
vương mới dám xâm nhập thế gian. Bởi nếu có một người biết tụng Chú Lăng Nghiêm
thì ma vương sẽ không dám xuất hiện, cho nên chúng tôi mong muốn có thêm nhiều
người trì tụng Chú Lăng Nghiêm. Trong khoá tu học hè đầu tiên của chúng ta,
trước hết, tôi đã khảo hạch xem ai có khả năng học thuộc Chú Lăng Nghiêm. Kết
quả là có hai người đạt tiêu chuẩn, sau đó lại có thêm rất nhiều người có thể
tụng chú được. Bây giờ tôi sẽ giảng về Chú Lục Tự Đại Minh.
Đầu tiên là chữ “Án”. Khi quý vị tụng chữ “Án” nầy,
tất cả quỷ thần đều phải chắp tay lại. Vì sao phải chắp tay lại? Đó là giữ gìn
pháp tắc, tuân theo khuôn phép. Quý vị tụng một chữ nầy, thì tất cả quỷ thần đều
không dám gây rối, không dám không tuân theo mệnh lệnh. Chữ nầy có nghĩa là
“tiếng dẫn” (dẫn thanh), là tiếng mở đầu dẫn tới những lời chú tiếp theo, cho
nên khi đọc chú, đầu tiên đều đọc chữ nầy.
“Ma Ni” chính là “mâu ni”. “Mâu ni” là tiếng Phạn,
dịch là “trí tịch,” tức là dùng trí huệ để làm sáng tỏ tất cả các đạo lý, và do
đó đạt đến trạng thái tịch diệt vô sanh. Lại có thể dịch là “ly cấu,” nghĩa là
rời xa tất cả bụi bặm dơ bẩn, ví như viên ngọc “như ý,” rất toàn hảo, không có
chút tỳ vết. Viên bảo châu “như ý” nầy có công năng sanh trưởng tất cả công đức,
có thể đáp ứng mọi sở nguyện của con người.
“Bát Di” vốn nên đọc là “Bát Đặc Di,” dịch là “quang
minh viên giác”; cũng dịch là “liên hoa khai,” tức là diệu tâm của Bồ tát Quán
Thế Âm, diệu tâm ấy viên mãn đầy đủ, vô ngại. Đó là chữ “bát di.”
Chữ “Hồng” có nghĩa là “xuất sanh” —tất cả mọi thứ
đều có thể được sanh ra từ chữ “Hồng” nầy. Lại có nghĩa là “ủng hộ” —niệm chữ
nầy thì liền cảm ứng chư hộ pháp thiện thần đến trợ giúp, che chở cho quý vị.
Lại còn có nghĩa là “tiêu tai” —quý vị có tai nạn gì, tụng chữ nầy liền được tai
qua nạn khỏi. Lại cũng có nghĩa là “thành tựu” —bất luận quý vị cầu nguyện điều
gì, đều có thể được thành tựu như ý.
Một khi quý vị niệm Chú Lục Tự Đại Minh, thì sẽ có vô lượng
chư Phật, vô lượng Bồ tát và vô số hộ pháp Kim Cang thường xuyên đến ủng hộ quý
vị. Cho nên, Bồ tát Quán Thế Âm sau khi nói xong Chú Lục Tự Đại Minh nầy, liền
có bảy ức đức Phật đến vây quanh, ủng hộ. Năng lực và diệu dụng của Chú Lục Tự
Đại Minh không thể nghĩ bàn, sự cảm ứng đạo giao cũng không thể nghĩ bàn. Do vậy
nên gọi là Mật tông. Nếu giảng chi tiết hơn thì ý nghĩa nhiều đến vô lượng vô
biên, không thể nào nói cho hết được; thế nên tối nay tôi chỉ giảng sơ lược cho
đại chúng nghe mà thôi.
Tôi có thể cho quý vị biết một chút về thứ thần lực bí mật
không thể nói ra được. Tại sao tôi bảo là “thần lực bí mật không thể nói ra
được”? Bởi vì những điều tôi nói thì chưa được một phần vạn của sự việc. Thế là
thế nào? Nếu quý vị có thể thường xuyên trì tụng Chú Lục Tự Đại Minh thì sẽ
chiêu cảm được sáu đạo ánh sáng có công năng biến đổi sự tối tăm u ám của sáu
nẻo luân hồi trở nên sáng lạn. Điều cần thiết là quý vị phải chuyên tâm trì tụng
mới có thể đạt được thứ Tam-muội này. Bấy giờ, ánh sáng không chỉ chiếu khắp
trong sáu nẻo luân hồi, mà cả mười Pháp giới cũng biến thành “quang minh tạng”.
Tôi hy vọng mọi người dù bận rộn đến đâu cũng nên nhín chút thì giờ để trì tụng
Chú Lục Tự Đại Minh nầy. |