Source: Email from Trịnh Khải Hoàng Mũ Đỏ Trương Văn Út (ÚtBạchLan) .Người Lính Nhẩy Dù Với Chiều Kích Tâm Linh: Chập chờn trong giấc ngủ mỏi mệt gần như kiệt sức, tôi trở mình xoay qua phải, tay trái gác lên xác Minh đã được gói ghém cẩn thận trong lớp poncho ướt đẫm sương khuya. Chiều nay, trước khi đặt xác Minh vào chiếc quan tài bằng nylon dã chiến này, tôi đã khấn nguyện như thầm nhủ với em :”…thôi em hãy đi… đi...vào cõi siêu thoát , chớ vương vấn chi…chi những hệ luỵ của kiếp người phù du trong cuộc đời vô thường như ảo mộng nầy…”…và vuốt đôi mắt mở trừng tới lần thứ ba, Minh mới chịu nhắm mắt…! Minh trình diện tôi cuối năm 1968 với cấp bậc Hạ Sĩ truyền tin, nhân tướng cao dong dõng với khuôn mặt đẹp trai dáng vẻ thư sinh, tài tử phim ảnh hơn là một “Lính Nhẩy Dù” gan lỳ dũng mãnh mà gót giầy Saut dẫm nát trên 4 Vùng Chiến Thuật với những chiến trận khốc liệt tử sinh không biết ngày mai ai còn ai mất…?!...với tính tình vui vẻ hoà đồng với mọi người, nhưng khi lâm trận thì can đảm, lỳ lợm không thua kém một ai trong đơn vị…!!! Chỉ một năm sau, Minh được thăng cấp Trung Sĩ và tôi gửi Minh đi học khóa Truyền Tin đặc biệt về mật mã, sau khóa học Minh trở về đơn vị, được thăng cấp Trung Sĩ Nhất và đuợc tôi bổ nhiệm chức vụ Trưởng Ban Truyền Tin của Đại Đội 2 Trinh Sát Nhẩy Dù. (ĐĐ2TSND) Trong nhiệm vụ này, Minh lúc nào cũng thường kề cận sát bên cạnh tôi như hình với bóng, và theo thời gian binh lửa ngút ngàn, dần… dần tôi thương mến Minh như em ruột của mình…! Minh còn độc thân, chỉ có một mẹ già và một đứa em gái nhỏ đang buôn bán tảo tần ở chợ Trương Minh Giảng. Minh rất giàu đầu óc sáng tạo, tự “chế tác” ra những mật mã Truyền Tin nguỵ hoá để xử dụng hiệu quả mà ngay Nha Kỹ Thuật cũng không mã hoá được, huống hồ mấy tên cán ngố “sinh Bắc tử Nam” có thể phát hiện được qua âm thoại trên tầng sóng điện máy truyền tin … Đụng trận, Minh hét lên trong máy báo cáo liên lạc: “… ba lẽ tám bẩy không chín tám mười hai ba ba ba...” (giải mật mã là: 2 toán viển thám: 1 và 2 xuống chân đồi, 2 trung đội trinh sát theo sau và tấn công bộc hậu lên đồi). Sau hai ngày “san định” đồi 1049 (Delta), một Đại Đội của Tiểu Đoàn 2Nhẩy Dù (ĐĐ/TĐ2ND) thay thế Trinh Sát 2Nhẩy Dù (TS2ND), chúng tôi có lệnh di chuyển về hướng Bắc để bắt tay với Bộ Chỉ Huy Tiểu Đoàn 2Nhẩy Dù (BCH/TĐ2ND) đang ở đồi Charlie. Chúng tôi vừa “di hành” vừa nhổ “đẹp” chốt địch và tống tiễn hồn Bắc quân khiếp đảm, kinh hoàng bay tung về với thế giới cô hồn uổng tử…! Nhưng khi đến đồi 1028 (cao độ so với mặt nước biển) thì "đụng nặng". với một trung đội súng nặng của Trung Đoàn 33 thuộc Sư Đoàn 320 Cộng Sản Bắc Việt trú phòng trên đó với ưu thế hầm hố, địa đạo chiến đấu đã bố trí vững chắc, sẵn sàng chờ đợi để “gom bi” TS2ND chúng tôi…với “Thế Bối Thủy”, tiến thoái lưỡng nan, chỉ còn xông lên vượt đường máu lửa để sống còn, tôi ra lệnh "táp pi"…súng nổ vang rền chiến trận… Minh bị một tràng AK47 xé banh lồng ngực chết tại chỗ, máu tuôn ướt đẫm thân xác…!. Tôi mệt lã chập chờn trong giấc ngủ dật dờ, bàn tay trái vẫn còn trên cái poncho bó xác của Minh lạnh giá, chợt tai nghe tiếng nói của Minh từ một cõi âm ty thâm u xa xăm nào đó mang âm hưởng tỉ tê não nuột rờn rợn ớn lạnh toàn thân…! - Đại Úy ơi…! Mở ba lô của em ra, lấy cái poncholight của em mà đắp và giữ nó bên mình, mở cái poncho của em ra lấy cái thẻ bài gửi cho Mẹ em và con Nguyệt (em gái của Minh), còn sợi dây chuyền có cái thẻ ngà bằng nanh heo rừng Đại Úy hãy mang vào cổ đừng bao giờ rời nó....”…! Tôi choàng tỉnh ngồi bật dậy. Trời hãy còn tối đen như mực, chỉ nghe tiếng xào xạc của lá cây rừng cùng tiếng văng vẳng đâu đây của Minh như chưa tan loãng hết trong không gian u uất, linh hồn phất phơ đầu cây ngọn cỏ còn ướt đẫm sương đêm…! Nhìn quanh bên cạnh vài thước, Y Khương vẫn còn ghìm súng trong phiên gác nửa đêm về sáng…Tôi tự lự tự hỏi với chính mình:” có thật linh hồn của Minh vẫn còn lẫn khuất quanh đây, em về báo mộng cho tôi, hay chỉ là hư ảo qua tình cảm tiếc thương đứa em cận kề thâm tình bấy lâu nay mà sinh chuyện mộng mị giữa đời thường…”?! … trong khi áp lực địch quân trùng điệp với lưới thép lửa đạn dầy dặc vẫn còn vây kín tứ phương …và cho dù có tin hay không tin thì cũng phải chờ cho đến khi trời sáng mới có L19 (phi cơ quan sát) bao vùng và mong là sẽ có C&C của Lữ Đoàn bay trên không phận để liên lạc với tôi…! Tôi làm theo lời báo mộng của Minh, thò tay lục ba lô và mở poncho gói xác Minh… quả thật đúng như vậy, và tôi làm đúng những gì Minh căn dặn là tìm thấy được: một pocholight, sợi dây chuyền có cái nanh heo rừng khắc Phạn Ngữ Chú Nguyện theo phương pháp bùa Miên mà các vị “Lục Khủ” (Thầy) phúc tụng, tom phép hộ thân vào Katha… Suốt ngày hôm đó trực thăng của Phi Đoàn 229 không tiếp tế, tản thương được, đến buổi chiều chỉ có chiếc LOH của Cố Vấn Trưởng John Paul Van rà xuống, đạp vội vài thùng lựu đạn, đạn đại liên và vài chục ống đạn 155 ly chứa nước uống. Hơn hai mươi thương binh và 12 xác chết vẫn còn nguyên đó…! Tôi nhận được công điện từ hậu cứ Long Bình của Trung Úy Tài nguyên văn:" Kính đích thân! Sáng nay mẹ và em gái của TSN Nguyễn Văn Minh có đến văn phòng hậu cứ khóc lóc thảm thiết và chất vấn tôi về tình trạng Minh đã tử trận. Tôi quá đổi ngạc nhiên vì chưa nhận được một báo cáo hành quân nào cả. Chỉ biết là đơn vị đang đụng nặng và chờ tin tức mà thôi. Tôi hỏi thì bà trả lời rằng: “… thằng Minh đã chết và đã có về báo mộng cho tôi đêm qua …"…?!!! Đọc công điện từ hậu cứ, tôi giao động thân tâm thẩn thờ như kẻ mất hồn…! Tôi đã có chỉ thị truyền tin báo cáo tổn thất tổng quát cho Lữ Đoàn nhưng chưa có chi tiết tên họ tử sĩ và thương binh…Nhưng binh sĩ thay thế cho Minh phụ trách công điện chưa thành thạo công việc truyền tin liên lạc báo cáo… lại nữa TS2ND chúng tôi còn trong vòng chiến trận bị Bắc quân vây hãm với hoả lực hùng hậu tứ bề thọ địch…!!! Để độc giả có thể hình dung được bối cảnh lâm trận của TS2ND và tương quan lực lượng với địch quân trên Mặt Trận Tây Nguyên – Mùa Hè Đỏ Lửa năm 1972 , tôi xin trích dẫn đoạn văn của Tác Giả Vương Hồng Anh là Nhà Văn Quân Đội đã dầy công biên soạn Quân Sử của Quân Lực Việt Nam Cộng Hoà, đã có đề cập đến Đơn Vị Trinh Sát 2 Nhẩy Dù (TS2ND) trong trận thư hùng khốc liệt với Bắc Quân: “Lữ Đoàn 2 Nhẩy Dù Tử Chiến Tại Vùng Đồi Delta, Charlie”: “ Trận chiến giữa Trinh
sát 2 Nhảy Dù và Cộng Quân ở đồi Delta: Sau khi Pháo Binh và Không Quân hỏa tập để dọn bãi đáp, đoàn trực thăng đổ Đại Đội Trinh Sát vào đỉnh đồi. Vừa nhảy xuống mục tiêu, toàn đại đội tràn lên tấn công. Bị tấn kích bất ngờ, cụm tiền đồn của Cộng Quân không kịp phản ứng, đã bị triệt hạ. Nguyên cả toán tiền đồn của Tiểu Đoàn 1/Trung Đoàn 3/Sư Đoàn 320 CSBV bị bắt sống. Tuy nhiên, ngày hôm sau, Cộng Quân đã điều động 1 Tiểu Đoàn để bao vây đại đội Trinh Sát. Dù bị áp đảo về quân số, nhưng trung úy Út (ám danh dùng để liên lạc qua máy truyền tin là Út Bạch Lan) đã linh động tìm cách thức đánh trả. Út Bạch Lan cho phân tán đại đội và lưu động tác xạ để đánh lạc hướng phán đoán của đối phương. Cộng Quân tràn lên xung phong nhưng chỉ gặp từng toán nhỏ, các toán này đã nhanh nhẹn lẫn tránh sau khi đã bấm mìm claymore. Địch quân lại tiếp tục bao vây, không ngờ rằng đại đội Trinh Sát 2 Nhẩy Dù đã vòng ra phía sau tấn công ngay vào Bộ Chỉ Huy Tiểu Đoàn Cộng Quân và bắt trọn cả bộ phận này, trong đó có cả Tiểu Đoàn Trưởng Tiểu Đoàn 1/ Trung Đoàn 3 CSBV là Trương Hà.
* Tiểu Đoàn 2 Nhẩy Dù nhập trận:
Và trích dẫn bài viết “Charlie Ngọn Đồi Quyết Tử” của Nhà Văn Quân Đội Mũ Đỏ Nguyễn Văn Lập , đăng trên báo Chiến Sĩ Cộng Hoà số 2, xuất bản tháng 8 năm 2009 do Hệ Thống Báo SàiGònNhỏ phát hành: “Từ ngày này trở về sau, toàn bộ Charlie bị pháo kích thật nặng, mổi ngày cỡ ngàn quả mà nhiều nhất là 130 ly, rồi đến đại bác 122 ly, và cả hỏa tiển 122 ly mà tôi nghe được tiếng hú. 310 báo lên Thiếu Tá Lạc:” tụi tôi bị ăn 130 ly, ngoài tầm không phản pháo được, chẳng lẽ phải nằm đây lãnh pháo”? Lúc này Đại Tá Trần Quốc Lịch, Lữ Đoàn Trưởng Lữ Đoàn II Nhẩy Dù ở Căn Cứ Võ Định cũng đã trình lên cấp trên xin cho Tiểu Đoàn 11 Nhẩy Dù rút ra ngoài căn cứ Charlie, Nhảy Dù mà nằm đưa đầu ra lãnh pháo như thế này thì phản chiến thuật quá. Nhưng Trung Tướng Ngô Du, Tư Lệnh Quân Đoàn II vẫn lặng thinh, và Cố Vấn John Paul Van chẳng biết mẹ gì chiến thuật và pháo binh, vẫn kiên trì áp lực...tử thủ, chắc là định dùng TĐ11ND nhử cho địch lên tapi như trường hợp của Đại Đội 2 Trinh Sát Dù dưới sự chỉ huy của Đại Uý Trương Văn Út (danh hiệu truyền tin Út Bạch Lan) đã được trực thăng vận nhẩy xuống trấn thủ ngọn đồi 1049 ở Mặt Trận Tây Nguyên 1972. Nhận biết được tin quân Việt Cộng sẽ cường tập tấn công ngay trong đêm để tận diệt TS2ND , viên cố vấn Mỹ của Đại Đội là Trung Uý Buda đã gọi liên lạc xin với Cố Vấn Trưởng Quân Đoàn 2 Mr Paul Van và Tướng Ngô Du Tư Lệnh Quân Đoàn II xử dụng toàn bộ hoả lực phi pháo, hải pháo Việt - Mỹ để yểm trợ cho TS2ND dứt điểm giết chết cả Trung Đoàn Phòng Không thuộc Sư Đoàn Thép 320 lừng danh của Bắc Việt, cộng quân phơi xác vương vải khắp cả ngọn đồi 1049…! Với chiến thắng lẫy lừng Quân Sử nầy Tướng Ngô Du đã đặt tên cho đồi 1049 là “Đồi Út Bạch Lan” …!!! Và vì trận này mà Bộ Chì Huy Quân Sự Việt Cộng đã lên án tử hình Đại Úy Trương Văn Út, Đại đội trưởng Trinh Sát 2 Nhẩy Dù và thề tiêu diệt đại đội này. Quân Đoàn II còn lệnh cho T Đ11 ND ra hố pháo tìm chứng tích của đầu nổ 130 ly Sơn Pháo VC, rồi mới cho B52 dập. Quân Đoàn cũng chẳng màng gần một phần ba quân số TĐ11ND đã bị loại ra ngoài vòng chiến vì đạn pháo và chưa đươc di tản! Cái hào quang chiến thắng của thượng cấp ngoài binh chủng đo bằng máu của Quân Nhẩy Dù thật quá đắt, và quả thật nếu không bị pháo kích từng phút một, chúng tôi có thể ra hố đạn đo hướng bắn và bới tìm đầu nổ, nhưng làm sao gửi ra cho các bộ óc đặc sệt chỉ thị đây ?! Hằng trăm thương binh, mấy chục binh sĩ tử thương vì pháo còn chưa di tản được nằm đầy các giao thông hào, không có chiếc trực thăng tản thương nào vào được cách C2 khoảng 500 mét thì nói gì đáp xuống tãi thương hoặc tiếp tế. Chỉ có một pass B52 đánh về hướng Nam gần Charlie thì nhằm nhò gì, pháo của chúng đặt về hướng Tây và Tây Bắc cách Charlie ít nhất 15 đến 20 cây số thì tại sao không dập…? Mỗi lần bị pháo kích xong, phi cơ lên vùng, pháo địch im, phi cơ bay ra khỏi vùng, lại bị pháo tiếp, tôi chỉ còn biết ước lượng vị trí pháo địch gửi về các pháo đội tùy nghi phản pháo nếu có thể. Tình hình hết sức khẩn cấp, nếu không có lệnh rút, chắc sẽ chết hết vì pháo”. (ngưng trích)
…Tiếp theo chuyện của Minh: Tôi hỏi Sơn Nhung, Hạ Sĩ Nhất người Miên bên cạnh tôi với Minh về
sợi dây chuyền và cái nanh heo rừng. Sơn
Nhung nói : - Mi có sao không ? - Dạ không, …nhờ có bùa hộ mạng…? …và cười trừ…!!!
Tôi nghĩ tới Minh trong những giây phút thập tử nhất sinh vừa qua, em có bên cạnh anh với máy PRC25 nặng chình chịch trên lưng của em hay không, hay em đang ở một cõi trời vô sắc nào đó không có không gian cũng không có thời gian,em đã vào hư vô hay vẫn hiện hữu bên anh…?
Ôi vùng Trị Thiên, An Lộc, vùng Tam Biên
Để gọi đích danh chúng: “bọn đồ tể Việt Cộng”:
Giặc từ miền Bắc vô đây, bàn tay dính máu đồng bào
Lợi dụng mấy ngày ở hậu cứ, tôi cùng Trung Úy Tài Chỉ Huy Hậu Cứ, Thượng Sĩ Nhất Tá Thường Vụ, Thượng Sĩ Nhất Chiến Hạ Sĩ Quan Tiếp Liệu đến Nghĩa Trang Quân Đội để viếng mộ của Minh. Ngôi mộ chắc chỉ mới được lấp đất vài ba hôm còn ngay ngáy mùi đất mới đào xới trông rất thảm hại…! Đứng trước mộ của Minh, tôi thầm khấn vái: " Em sống khôn, nay chết có linh thiêng xin phù trợ cho tất cả anh em được tai qua nạn khỏi "…! Buổi chiều cùng ngày tôi với các Sĩ Quan, Hạ Sĩ Quan, Binh Sĩ trong đơn vị “làm” cạn láng 5 thùng Remy Martell của toán Cố Vấn Mỹ mua tặng…rượu hết, tàn tiệc…tôi say chếnh choáng, thần trí lờ mờ, chân bước loạng choạng ngã nghiêng tìm giường và ngáy khò khò chìm vào giấc ngủ say khước…Bỗng tai lại nghe văng vẳng đâu đây âm thanh rè …rè…quen thuộc trên máy PRC25 khi trời vừa sáng:”… Đại Úy ơi...nhớ ngày mai ra thăm em lần nữa… và nhớ ghi cho kỹ số mả của em để mua vé số” ! Tôi choàng tỉnh giấc và có cảm giác rờn rợn ớn lạnh dọc theo sống lưng như cảm ứng linh hồn của Minh còn dang lãng vãng quanh đây…và tôi tin có thật Minh đã ở bên cạnh phù hộ thân cho tôi và anh em trong đơn vị đã thoát qua hai cơn hiểm nghèo, một ở phía tây Charlie, một ở Chupao… cũng bởi nhờ vào kỷ vật nanh heo rừng có khắc Phạn ngữ chú nguyện cho người hữu Duyên của Minh báo mộng “trao” lại…?!!! Trong buổi họp bỏ túi sáng hôm sau, bên tách cà phê đang bốc khói ở Câu Lạc Bộ TS2ND, tôi đem câu chuyện Minh báo mộng đêm qua tâm sự với tất cả Sĩ Quan trong đơn vị và họ đề nghị:”… thì mình cứ làm thử xem, cầu may mà, có tốn kém gì đâu…”! Sau đó ai muốn đóng góp bao nhiêu tiền tùy hỉ, giao cho HSQ kế toán làm sổ sách...tổng cộng được trên mười ngàn đồng để mua vé số.! Tôi với Trung Úy Tài Sĩ Quan Hậu Cứ lại một lần nữa đến Nghĩa Trang Quân Đội vào lúc buổi trưa. Mộ của Minh vẫn chưa có bia, chỉ có tên họ số quân đơn vị viết nguệch ngoạc trên tấm gỗ cắm trước mồ, không có số mộ…! Trung Úy Tài vào văn phòng của Đại Đội Chung Sự mới tìm ra đưọc danh số mộ bia là: 198264. Tôi tính nhẫm cộng lại thành ra số “bù” (10 nút)…Nhớ trước đây khi Minh còn sống, em luôn luôn chọn danh số liên lạc truyền tin cho tôi lúc nào cũng chín nút chẳng hạn như: 81, 72, 63...hay 531, 405 và các Sĩ Quan Trung Đội Trưởng cũng tương tự như vậy...Nay em đã mất,mộ bia của em lại mang con số “bù”…Ngẫm tạo hoá cũng khéo trêu người…?!!! Tôi hỏi: - Anh Tài ...anh nghĩ sao ?
Hai
Biệt Đội 81Biệt Cách Dù (BĐ81BCD) thay thế
TS2ND. Chúng tôi lui ra phía sau giữ "Bến Đò Đưa Xác" ở sông Nhung (sông
Vĩnh Điện) trong khi quân số còn không quá 40 nhân mạng… ! Bây giờ đến phiên
TS2ND khiêng poncho, cõng thương binh của TĐ5ND và 81BCD để chất lên Thiết Vận
Xa M113 cách đó gần 500 mét… cho đến gần hai tuần lễ sau mới có lệnh cho Thuỷ Quân Lục Chiến thay thế toàn bộ lực Nhẩy Dù và 81Biệt Cách Dù
…! Chúng tôi TS2ND được triệt thoái về phía Nam sông Bồ chờ bổ sung quân số và tiếp
liệu…!!! Tôi nhận được công điện của Trung Úy Tài Chỉ huy
hậu cứ báo: " Ngày mai tôi sẽ có mặt hành quân. Có vài điều cần trình với đích thân. Tài". Sau đó Tài theo chuyến bay tiếp tế ra chỗ
hành quân gặp tôi và trình báo:
Tôi vốn xuất thân “Võ Biền”, văn dốt chữ nát… thì làm sao để có thể biện luận, giải thích, trình bày từ u mặc cho chí lý hiển lộ được hiện tượng, trạng thái, tính chất chân đế, qui ước chế định là chỉ Danh để vay mượn tạm mà làm phương tiện hạn hẹp trong lắm lời ngôn từ vốn thường tối nghĩa để lý sự chỉ bày nhiều trường hợp rất giản dị và thường tình mà hạng “thuật sĩ”, triết gia thời đại, …thường hay lẻo mép dạy đời…và lại nữa “thì làm sao” “thuyết minh” câu chuyện mộng mị của cố Thượng Sĩ Minh, người Hạ Sĩ Quan TruyềnTin bên cạnh tôi như hình với bóng trong suốt một khoảng thời gian dài chinh chiến dạn dầy gian khổ, hiểm nguy… có dư thừa bi thương máu lửa và nước mắt mà được ít ngắn ngủi niềm vui …! Hôm nay đây ở Mỹ, vào những ngày đầu Nguyên Đán khí trời ấm ám, gió sớm thoáng thổi nhè nhẹ mang theo tiết Xuân hây hây vờn những sợi tóc mây phơn phớt trên má cô gái Xuân thì e ấp nói cười, trong nhà, ngoài ngõ sắc Xuân tươi thắm mơn mỡn hiện nét trên những cành chồi non, hoa Xuân nở rộ khoe sắc,…Chuyện chinh chiến máu lửa không còn nữa, nước mắt đã khô cạn, nhưng trong tôi vẫn có linh cảm Minh vẫn còn “hiện hữu” bên cạnh tôi với những thăng trầm trong cuộc sống hoài cố hương nơi xứ lạ, em luôn phù hộ nâng tôi đứng dậy khi tôi ngã quỵ, an ủi tôi khi rơi vào nghịch cảnh…và có đôi khi thu thúc lục căn, thân tâm khinh an lạc bước dạo chơi vào thế giới quan “Âm cảnh” lý sự mang mang với Minh nơi cõi “Vô Sắc Giới” hà phương chi liễu ngộ vốn vô minh mà sinh chấp hữu vạn pháp giới ...chí đến: Thuỷ chung tương hoán hà phi xứ Lai khứ thường niên hà thị tâm Vạn hoá đại toàn ai khá biết ! Cổ lai muôn sự lý tuỳ trung… “Cái” tuỳ trung, hiểu biết như ở trong lòng bàn tay là ở những “Bậc Thần Nhân” Đại Trí, Đại Lược, Đại Dũng,…phải chăng cũng là “ đại gạt, đại gian hùng, đại ác độc” …đã thiết kế Chính Trị,… và dùng cường quyền đưa đẩy Dân Tộc - Đất Nước Việt Nam vào chiến sự khốc liệt suốt cả phần tư thế kỷ, rồi tháo chạy an toàn về hậu phương “phớt tỉnh Ăng Lê” (England) mồm loa mép giải với “danh ngôn” để lại lịch sử mai hậu soi chơi:” …trang sử Việtnam đã được lật (lọng) qua…”…!!! Thống kê của “Người Mỹ” đã đưa lên con số 3,000 000 (ba triệu) người Việt đã bị giết trong cuộc chiến, thống kê của Nhà Nước Việt Nam (VC) hơn 1,100 000 (một triệu một trăm ngàn) quân dân Bắc Việt hy sinh và còn nữa (Quí Độc Giả có thể lên Net để xem thống kê) …! Con số thật nạn nhân Việt bị bom đạn được sản xuất tận các quốc gia Văn Minh Âu, Mỹ, Liên Xô, Tàu Cộng ,…phải nhiều lần hơn thế ! Thế giới đã đồng loã với tội ác với Việt Cộng. Vì nếu nói thật, viết thật, công bố thật số nạn nhân Việt Nam trong cuộc chiến Quốc - Cộng chẳng khác nào như gián tiếp tố cáo “Tính Nhân Đạo,Trí Thức, Lương Tâm” …của “người” văn minh Tây Phương trước sự diệt chủng của Việt Cộng dẫu sao cũng đã mang đến lợi nhuận cho “họ” rất nhiều…Người Lính Nhẩy Dù chúng tôi và toàn thể dân Việt đã phải nhận chịu bao nhiêu triệu tấn bom đạn đã trút xuống ruộng vườn, nương rẩy, nhà cửa, mồ mả gia tiên, súng đạn từ Nga,Tàu, Khối Sô Viết và những “quốc gia anh em Cộng Sản” cũng chỉ để tàn sát dân Việt. Người Việt chúng tôi là Người đó ! Minh là một điển hình: “ Người Lính chết trận khi mái tóc còn xanh” và: Một ngày tôi đi qua Trại lính ngang nhà Thấy một lá cờ Với một vòng hoa. Hỏi ra: Mới biết anh là Lính trẻ xa nhà Chết trận đêm qua ! Chung quanh đây Có ai đâu…? Đưa tiễn anh về Buồn tiễn anh về Với lòng đất sâu…!
Đêm Xuân nơi xứ người, trời khuya lành lạnh…! Chạnh nỗi nhớ quê nhà, tôi thắp lên nén hương thầm tâm sự lênh đênh với “chúng sanh” Minh: Ai từ sắc tướng tìm ta ? Ai từ âm tiếng gọi ma cõi ngoài ?Tâm tư của tôi như chuyến tàu đêm đỗ bến quê nhà, viếng mộ em nay còn hay đã hoang phế tiêu điều mà rợ hoang đã mọc phủ kín chỗ nằm…? Minh ơi ! Anh không có tham vọng là ảo tưởng để “ăn cơm dưới đất mà nói chuyện trên trời” lấy “cái” trí tục vật hạn hẹp để bàn chuyện bao la vô cùng của vô thuỷ, vô chung không không du du hạt vi trần du phương trôi lăn hà tứ xứ…chỉ là khúc nôi của trí não chưa bị lú lẫn còn nhận biết:” phân biệt là Thức, vô phân biệt là Trí; dựa Thức là Nhiễm, dựa vào Trí là Tịnh. Nhiễm tất có Sinh Tử; Tịnh chẳng có Chư Phật”…bước “chân” vào thế giới Chân Đế nầy, Anh phải cởi bỏ kiến thức cũng như giầy dép để qua ngưỡng cửa thế gian pháp, tháo mở nút thắt thói tục đã huân tập, tiêm nhiễm biết bao định kiến, thành kiến, thường kiến, đoạn kiến …là si mê bao bọc, đóng chặt nẽo về giác ngộ…! Minh ơi ! …Không gian bao la vô cùng và hằng chuyển…trái đất “của” chúng ta đang sinh sống đây “thuở trời đất chưa có cơn gió bụi” nó như là một tinh cầu than (carbon) chết bay hoài, bay huỷ…nhiều tỷ tỷ tỷ năm …và những “hạt” vi trần năng lượng làm Nhân theo trùng trùng Duyên khởi mà cấu tạo thành môi sinh để nẩy nở vật chất là vạn pháp tiến hoá…khởi thuỷ hành tinh có sự sống nầy không có ngay cả ý niệm thời gian, thì nói gì đến có ngày:” thứ Hai, thứ Ba, thứ Tư, thứ Nam, thứ Sáu, thứ Bẩy và Chủ Nhật”…?!!! Sắc Pháp: thân thể Vật Lý hay Vật Chất luôn biến đổi theo tính chất vô thường… là duyên “vay mượn” của hạt năng lượng trong không gian có sẵn mà cấu thành…? Danh Pháp: là “phần” Tâm Lý” 121 Tâm Vương, Tâm Sở cũng là Duyên vay mượn từ 33 cõi: Dục Giới, Sắc Giới, Vô Sắc Giới, Siêu Thế Giới… làm: Thọ, Tưởng, Hành, Thức và là “nơi” chúng sanh “Người” thọ hưởng tướng trạng hạnh phúc hay đau khổ…?!!! Đó cũng là ý nghĩa của bản Kinh Bát Nhã Ba La Mật Đa Tâm Kinh - Prajna-Paramita Sutra: “ Ngài Bồ Tát dụng tuệ giác không có gì ngăn ngại quán xét thâm sâu hiện tại, soi thấy ngũ uẩn: Sắc (hình thể vật lý), Danh (tâm lý): Thọ cảm giác chủ thể chịu ảnh hưởng bởi đối tượng, Tưởng tác ý đến đối tượng, Hành hiện tượng tâm lý hay cảm xúc phát khởi theo sự kích động của thọ và tưởng, Thức sự hiểu biết …đều không có tự tánh (vô ngã)…nên rốt ráo là giai không…! Vậy thì Minh ơi, sau khi tử cận tâm chấm dứt thân thể vật chất của em chỉ còn là cái xác vô tri, vô giác đang theo tiến trình huỷ hoại vật lý…Tâm thức của em ngay lập tức tái sanh theo nghiệp mới, sanh trở lại trong kiếp sống kế tiếp, không là người, mà là một “chúng sanh” Ma trong cõi vô sắc giới còn giữ được nguyên thức giác, tính năng ở tàng thức thứ 8 Alayda…mà như… như quán tính khi còn tại thế Minh vẫn miệt mài gian khổ, vui buồn kinh qua đoạn đường chiến chinh…? Hay em cũng như bao “chúng sanh” hữu tình ở cõi sắc giới, vô sắc giới do vô minh u… u… mê… mê lầm tưởng là đời sống ở những cõi như thế là hạnh phúc vĩnh viễn và tâm tham được sống, tham ái phát sinh mà thành nhân thức tái sanh kiếp người tương lai khi có hội đủ phước báu và nhân duyên…? Thời Kinh khuya tụng:” Sappe Satta Avera Hontu Sukita Hontu …nguyện cho chúng sinh đừng có oan trái lẫn nhau, hãy cho được sự an vui, sự hạnh phúc, sự bình yên lâu dài…Anh phúc chúc và hồi hướng cho em Nguyễn Văn Minh được an lạc, hạnh phúc, tái sanh nhàn cảnh…”…! Nhưng em khẳng định:” Em không muốn tái sinh khi bọn Việt cộng còn đang ngự trị trên dân tộc, đất nước Việt Nam…”…! Khiến cho anh đã bao lần cũng mong ước sẽ được về lại quê nhà, thăm bao người thân, quyến thuộc, viếng mộ Ông Bà, Cha Mẹ và tìm lại mộ phần của em…Nay “đành” phải dứt khoát thái độ sẽ không về Việt Nam khi còn loài Việt cộng kẻ thừa sai của Hán thất trên đất nước Việt thân yêu.Khi còn sống Minh hiền lành, khôn ngoan…sau khi chết em linh hiển “Hồn” vẫn còn tình Huynh Đệ Chi Binh quyến luyến, thường theo bên đời phù độ giúp cho anh may mắn thoát khỏi bao hiểm nguy giăng mắc trên đoạn đường chiến binh …Tự thân anh biết cũng là quá đủ để thầm truy điệu tử sĩ và cám ơn em với tất cả tấm lòng trĩu nặng ân tình:Nếu cuộc đời là hữu phùng hữu biệtThì tôi như mây trắng mãi ngàn phương…Nếu cuộc đời là sầu đa lạc thiểuSao chân cầu còn lưu nước trường giang ?Ai đã qua sông còn ngoảnh vời cố quậnThiên lãng xa ải nhạn hướng đâu tìm…?(MĐTTA)Mũ Đỏ
Trương Văn Út (ÚtBạchLan) Viết xong Mùa
Xuân Ất Mùi 2015 Houston, Texas. |