Thành kính đảnh lễ Này Naropa thông minh, kẻ đang kham nhẫn khổ đau, Ô! Hãy nhìn kỹ vào các pháp [hiện tượng] thế gian! Khi cảnh giới vô-chứng (non-attainment) được chứng nhập, Sự thật vượt ngoài tri thức Hãy để dòng sông ô nhiễm của niệm tưởng Cũng như, [khi] cắt đi cội rễ của một cây có nhiều cành và cuống lá, Cũng như, ngay cả bóng tối gom về của một ngàn đại kiếp Nếu người hạ căn không thể an trụ trong nghĩa tối hậu, Cũng như, khi ngươi nhìn vào giữa hư không, Cũng như, hơi nước bay lên từ đất và mây tan biến vào hư không, Cũng như, hư không lìa xa các sắc màu và hình tướng. Cũng như, mặt trời trong trẻo và thanh tịnh Cũng như, mặc dù hư không bị xem là ‘rỗng không,’ Thí dụ, hư không vốn không chỗ trụ nào để bám víu, nương tựa Trong cách đó, tự tánh của tâm thì hệt như hư không. Hòan tòan, đừng lao nhọc thân thể Thân này mong manh, hệt như lau sậy; Khi tự ngươi vào được như thế, Khi không còn một pháp [vật] để trụ, Cái nhìn bất nhị, siêu vượt tất cả chủ thể và đối tượng Tự tánh vô sinh của vạn pháp hiển hiện khi tan bức màn vô minh. Giải thóat hoàn toàn khỏi các biên vực là thị kiến tối thượng. Với người mới tu, tâm hệt như thác nước. Tánh sáng, tức Ðại Thủ Ấn, Khi ngươi không còn tạo tác thêu dệt nào trong tâm, Gìn giữ các lời nguyện một cách khái niệm tri thức, Khi, vắng sạch bất kỳ ước muốn nào, Nếu ngươi thiền định trong chân lý này, Những người u mê không hướng tâm đến chân lý này, Nếu ngươi muốn giải thóat khỏi đau khổ, hãy theo một vị đạo sư thượng thủ. Nếu ngươi dựa vào dấu ấn hành động, [5] Tinh lực sẽ từ từ hạ xuống, ngừng lại, đảo ngược và lan tỏa. Khi không còn chấp thủ nào, trí tuệ của niềm an lạc rỗng rang khởi dậy Ngươi sẽ trở thành sáng chói và rực rỡ, với năng lực như của một sư tử. Những chúng sinh may mắn, hãy ghi nằm lòng lời khuyên cốt tủy này về Ðại Thủ Ấn. Bên bờ Sông Hằng, những lời giảng này được Ngài Tilopa dạy cho Naropa. Xin nguyện thành tựu công đức. [1] Trí Tuệ Bất Nhị Thù Thắng: Bản của Ari Kiev viết là ‘glorious coemergence’; chữ coemergence có nghĩa là cái thấy bất nhị, khi thấy tâm với pháp là một, khi thấy sinh tử với niết bàn là một. [2] Bản của Ari Kiev viết là hãy ‘giữ điểm chủ yếu của năng lực gió’ -- hold the vital point of wind energies. Như thế sẽ tối nghĩa, cho dù có đúng với bản gốc Phạn Ngữ. Bản Anh Ngữ của Kunzang Tenzin nói rõ là niệm hơi thở: If the mind is dull and you are unable to practice these instructions, Retaining essential breath’ (Nếu tâm thô tháo và ngươi không có thể tu tập các lời dạy này, giữ gìn hơi thở chủ yếu.) Còn bản Anh Ngữ của The Dharma Fellowship viết: ‘One who wishes to attain this level of meditation should first begin by practicing remembrance of the breath.’ (Học nhân nào muốn thành tựu bậc thiền này, trước tiên hãy bắt đầu bằng pháp niệm hơi thở.) [3] Nhờ phương tiện chỉ và quán: dịch từ nhóm chữ ‘by means of myriad gazes and [modes of] focused attention,’ nghĩa là ‘bằng phương tiện chiếu kiến thâm sâu và [các trạng thái của] sự chú tâm.’ Đối với người Việt, nói ngắn gọn là ‘nhờ phương tiện thiền quán và thiền chỉ’ thì dễ hiểu hơn. [4] Samaya, gốc chữ Sanskrit, nghĩa là các lời nguyện Mật Tông trong Phật Giáo Kim Cang Thừa; vi phạm các lời nguyện này sẽ có ảnh hưởng cực kỳ tai hại. [5] Dấu ấn hành động, action mudra (Phạn: karmamudra): có 2 nghĩa -- nghĩa thứ nhất là một thế ấn ở tay, biểu tượng hành vi giác ngộ; nghĩa thứ nhì là nhờ sự trợ giúp của người phối ngẫu tâm linh. Theo định nghĩa từ trang: http://www.namsebangdzo.com/Action_Seal_Seal_of_Action_p/g00012.htm Bản tiếng Anh do Ari Kiev chuyển ngữ. Copyright @ The Gar Choding Trust, 2005. Giữ bản quyền. Bản tiếng Anh có trên trang www.gar-choding-trust.org được tự do phổ biến nếu giữ văn bản chính xác không thay đổi. Bản tiếng Việt do Cư Sĩ Nguyên Giác chuyển ngữ, dựa phần chính vào bản tiếng Anh ‘The Ganges: Essential Instructions on Mahamudra’ của Ari Kiev; một vài chỗ tham khảo thêm ở 2 bản Anh-ngữ khác: bản ‘Tilopa’s Mahamudra Instruction to Naropa in Twenty Eight Verses’ của Kunzang Tenzin, tại http://www.kagyuasia.com/l_tilo_t_song_mahamudra2.html Viet_Vajra Foundation trình bày và ấn tống để cúng dường Ðại Sư Garchen Triptrül Rinpoche tôn quý, bậc thành tựu giả Ðại-Thủ-Ấn, hiện thân của lòng từ bi vô lượng của Quan-Âm. Nguyện tất cả chúng sinh sớm thành tựu Ðại-Thủ-Ấn viên mãn, trong đời này, hoặc trong các đời sau. Liên lạc dịch giả Nguyên Giác: hai520222@yahoo.com Tháng 02/2006 Ngài Tilopa (968-1069) sanh truởng tại xứ Ðông Bengal trong một gia đình quý tộc Bà-la-môn. Ngài tu học với nhiều vị thượng thủ, đặc biệt là qua linh kiến với các vị bổn tôn như Vajrayogini,Vajrapani, Chakrasamvara, và với Ngài Long Thọ (Nagarjuna) về tánh sáng, về thân huyễn ảo và pháp môn Mật thừa Guhyasamaja. Khi làm vua, ngài đã dùng thần lực từ bi để chặn đứng cả một đại quân khát chiến. Ngài nhập thất tu ẩn nhiều năm và đạt đuợc nhiều chứng đắc thâm diệu, nhưng chính khi được bổn sư Long Thọ giao phó cho ngài công việc giã mè cho một điếm-nữ mà ngài Tilopa đã đắc quả vô thượng trên tầng đệ nhất nghĩa. Những lời giảng này đã được ngài truyền lại cho đại đệ tử của ngài là Naropa (1016-1100). Ngài Naropa xuất thân là một vị hoàng tử xứ Ấn và là một học giả lỗi lạc từ đại viện Phật Học Nalanda, nhưng ngài đã từ bỏ hết thảy để tìm về dưới chân của đạo sư Tilopa, trải qua 12 cảnh khổ nhục cùng cực dưới sự hướng dẫn của thầy, và đã đắc Ðại-Thủ- Ấn viên mãn. Hai ngài Tilopa và Naropa được coi là hai vị Sơ Tổ của giòng ‘Khẩu Truyền’ Kagyu, sau truyền xuống đến các vị đại đạo sư Tây-Tạng là Marpa Milarepa và Gampopa, cho đến tận ngày nay.
------------------------------------------------
Triết lý Phật giáo với Cư sĩ Nguyên Giác
|
Vấn đáp & Tâm linh > Tâm Linh >